Xong việc rũ
bụi trần ông đang lần lần ra chiếu thì chị bán rau rong ở cuối dãy bê đến đĩa
cá rán thơm phức:
Như thường lệ,
mỗi khi mặt trời xuống núi là ông bà làm nghề hát xẩm lại náo nức chuẩn bị cho giờ
biểu diễn miễn phí. Hôm nay cũng vậy, trong khi ông hì hụi tắm rửa thì bà bày
sẵn đàn, nhị, sênh phách rồi đi lo cơm nước. Nói lo cho nó oai chứ việc ăn uống
của người già thường giản tiện, hai ông bà sống bằng nghề hát xẩm càng giản
tiện, được cái chủ nhà thương người, mê hát, đã cho ông bà thuê căn buồng khép
kín với giá lấy lệ lại còn miễn phí hẳn một góc sân làm bếp nên hai người như
được sở hữu một căn hộ.
- Con có đĩa cá
biếu hai cụ.
Bà xuýt xoa:
- Sao hôm nay
nay nhà chị sang thế?
Chi hàng rau
láu táu:
- Dạ trưa nay
con mua được mớ cá cuối chợ. Cá chết
nhưng chưa ươn, muối mắm hành tỏi cẩn thận con mới rán! Dạ, hôm nay cụ khai bữa điệu gì đấy ạ?
nhưng chưa ươn, muối mắm hành tỏi cẩn thận con mới rán! Dạ, hôm nay cụ khai bữa điệu gì đấy ạ?
Nghe chị hàng
rau hỏi, ông cười:
- Trống quân,
sa mạc, lưu thủy, chầu văn, xẩm xoan, điệu gì chẳng được.
- Con cám ơn
cụ. Cả ngày bã bời, tối về được nghe hai cụ hát miếng cơm cũng đỡ nghẹn.
- Chị quá khen,
vậy hôm nay chị thích điệu gì?
- Dạ, ngày mai
cụ giỗ Tổ nghề, xin cụ một điệu xẩm ạ!
Ông rưng rưng,
đến chị hàng rau nghèo khổ còn có lòng thế này thì nghề của ông chưa mạt vận. Ông
cò cưa, thử tiếng rồi tiếng nhị, tiếng hát
như ngọn gió nồm nam trùm lên, vấn vít. Xóm trọ toàn những người bán sức lấy
cơm, cả ngày thật, giả, đổ mồ hôi sôi máu mắt lôi cả xóm ra đường, tối đến cả
xóm lại thành rốn của cái vó bè tụ rác tụ cá; Cả ngày nhận cơ cực, bực dọc, bất
công tối đến lại người đụng người, việc đụng việc thành ra người trong xóm ngày
không cãi, không đánh được với người thì tối về cãi, đánh với nhà, với xóm. Từ ngày ông bà đến trọ mọi
sự đổi dần. Hát xẩm vốn là mê nước giếng trong cơn khát, là miếng cơm nguội lúc
đói lòng, là tiếng lòng của người khốn cùng hát cho người đồng cảnh, đồng cảm,
ông bà là người tài hoa, hiểu biết, tình nghĩa, mới nhập cư đã giành riêng giờ
vàng hát miễn phí cho cả xóm mỗi ngày. Chẳng biết những tích chèo răn dạy con
người hay những bài hát cũ hát mới chui vào đầu lúc nào mà mỗi khi tiếng hát của
hai người cất lên là ai nấy dịu lòng, biết mình biết người…
Hai người xong bữa thì ông truyền hình cũng xong phần thời sự. Sau
rượu, lạc rang, cá rán là rạo rực, phấn chấn, ông gạ:
- Thế nào? Có sợ cày cùn nương cằn không?
- Phải gió nhà ông! - Bà ngấm
nguýt, nhưng đuôi mắt lại tõe ra hình dẻ quạt.
- Phải gió cũng phải mừng được lộc, cả đời giời mới rủ một lần. – Ông
nói như ra lệnh.
- Đúng là có voi đòi tiên! – Bà vừa hấm hứ vừa lên giường, tiếng rũ
chăn rũ chiếu như mời, như gọi.
Thoát khỏi mê cung cực nhọc bà hỏi ông:
- Cái của ấy đâu rồi?
- Của gì?
- “Nỡm, “lộc
giời” chứ còn của gì!
- Đây chứ đâu,
bay làm sao được.
Bà nắn nắn cục
“lộc giời” được gài mấy lần kim băng trong túi ông, hào hển:
- Không bay,
không mất, nhưng...
- Nhưng không
ngờ chứ gì?
- Ừ, tôi thấy
nó thế nào ấy! Chẳng nhẽ…
Sự hoài nghi
của bà lây sang làm cho ông nửa muốn giở “lộc giời” ra xem, nửa sợ sự thật làm
vỡ mộng. Lúc chiều, tàn đám hát chợ quê ông bà dắt díu nhau về phố. Qua gốc gạo
giữa đồng hai người ngồi nghỉ, ông vừa phưỡn một bụng nước đang nghêu ngao hát thì
một người đàn bà lân la đến làm quen. Tưởng cũng là người nghỉ chân như mình bà
bắt chuyện rôm rả, ai ngờ lúc đứng dậy chị ta dúi vào tay cái nhẫn. Nghĩ kẻ dỗi
hơi nhẫn tâm đút chân vào mồm kẻ khó ông máu bốc lên đầu bà mát mẻ tràn ra
ruộng. Ngỡ người đàn bà bẽ mặt bỏ đi nhưng chị ta sụp xuống kể lể chuyện mình,
chuyện người. Hóa ra chị là một Việt kiều về nước. Hóa ra chị đã nghe ông bà hát ở góc chợ, tiếng
hát của hai người đã làm cho đứa trẻ mồ côi ngày xưa lê chân đi xin ăn khắp
làng khắp chợ sống lại. Hóa ra để muốn tặng ông bà chút quà và cũng là tặng
tuổi thơ cực nhục của mình chị đã đi theo hai người suốt chặng đường dài. Hóa
ra... Những lời lẽ buột ra từ ruột gan của người từng tương đồng cảnh ngộ làm
ông bà rưng rưng, hai người nhận tấm lòng thơm thảo như nhận ơn nhận lộc của Phật,
của Tổ…
Nhưng mà!...
Ông nắn nắn cục “lộc giời” mà lòng như
bòng bong dìm nước. Đêm tháng hai nóng không ra nóng, lạnh không ra lạnh, cái
chăn đơn vừa là cứu cánh, vừa chịu đựng sự khó chịu, đã thế mấy con muỗi vô
công rồi nghề cứ tìm tai thổi sáo, đánh nó nó không chết, chết mình, bực mình.
Ông lần lần lấy
cái nhẫn khỏi túi:
- Bà nó đâu
rồi?
- Tôi đây!
- Thử đi. Lấy
lửa mà đốt, nó đỏ lên là đích thị.
Bà nhận cái
nhẫn, rời giường lệch kệch, lệch kệch, hơi vàng, hơi lửa tràn ra khắp căn
phòng, chui vào cả ruột cả gan.
- Thật rồi ông
ạ! – Tiếng của người mẹ đậu hoa đậu quả sau nửa đời ngóng chờ sinh nở buột ra.
- Biết ngay mà!
– Tiếng của người luôn biết lửa là nóng buột ra.
Chiếc nhẫn lại
vào tay ông, những cái kim băng lại làm nhiệm vụ đậy nắp hầm.
- Ông định ngày
mai thế nào?
- Thế nào là thế
nào?
- Thì... cái việc
giỗ Tổ ấy?
- Trước sao sau
vậy, nước cuốn lửa cháy đâu mà suốt đêm…
Thấy ông có vẻ
cáu, bà thở dài, trở dậy lục cục mở cửa, ra ngoài. “Đúng là đàn bà, cứ như nịnh
người dưng làm giỗ bố mình, không biết người ta cũng ruột gan xát muối hay sao.”
.
Giống như mọi
người trong nghề hát xẩm không lúc nào ông không thành tâm hướng về cụ Tổ. Ở
đời, miếng cơm manh áo với người bình thường đã khó, người tàn tật càng khó, Tổ
không phù, người không thương thì những kẻ bị giời đầy, người đầy làm sao còn
được gọi là người. Ông còn hơn thế! Mười tuổi mồ côi cả cha lẫn mẹ; mười lăm
tuổi, đi mò cá bắt được viên gạnh bằng vàng rồi bị anh trai, chị dâu không
những cướp không mà còn chọc mù hai con mắt, bắt bị gậy lang thang. Cũng may
Trời mở mắt, Tổ dõi theo, ông được một cô gái mồ côi nơi rừng xanh núi đỏ thương
người đưa về nhà đặt lên vai hai chữ làm chồng, làm cha.
Nhiều đêm vắt
tay lên trán ông thấy cảnh ngộ của mình giống cụ Tổ đến kỳ lạ. Gần nghìn năm
trước, do tìm được viên ngọc có cớ nối ngôi mà cụ Tổ - một hoàng tử tài giỏi bị
anh trai hãm hại chọc mù hai mắt rồi bỏ vào rừng sâu. Với cây đàn tự làm và
tiếng hát giời cho cụ Tổ đã tỏ rõ được đời mình, chí mình với đời, với người, đã
mở ra con đường sống cho những kẻ khốn cùng. Ông có hoàn cảnh gần như Tổ, không
kinh bang tế thế song ông đã có cái được của mình...
.- Ông giận tôi
lắm phải không? – Bà lại thẽ thọt vào tai ông. Nhũn nhặn của con giun ngày ngày
phải chui lên mặt đất hay bài ca than vãn sắp cất lên làm ông bực mình:
- Tôi đã bảo lửa tắt đừng thổi, sao bà cứ làm
khổ mình mãi thế?
Thấy ông to
tiếng, sợ hàng xóm giật mình bà bíu chặt tay ông, nhưng sợ hãi của bà như cát
bịt mỏ nước, ông vùng đứng lên, đôi chân gần một đời thận trọng từng bước giờ nện
như bổ củi xuống nền gạch hoa:
- Tôi biết bà
day dứt với việc vì bà mà tôi phải lang thang, nhưng bà cũng phải biết từ bà mà
tôi được giải thoát. Mấy năm qua không có nó tôi vẫn sống, tôi với bà vẫn răng vẫn môi…
- Nhưng mà…
- Nhưng gì! Đục
trong ngang dọc gì tôi biết, bà biết, người biết, bà cứ khuấy cái không cần
khuấy thế này là khổ bà khổ tôi đấy bà ơi!
Ông gục vào bờ tường, chết lặng, muốn xua tan
hình ảnh ngày xưa, nhưng cái ngày xưa cứ quay cuồng bắt ông đối mặt. Đó là ngày
vợ ông sức tàn lực kiệt mà không dám động đến một quả trứng của đàn gà đông
đúc. Là ngày khi biết dãy đồi nuôi mấy vạn cây mỡ cây keo vào diện quy hoạch mở
mang thành phố con ông đã rú lên như phải bả. Là ngày con ông nghe thằng con
ông anh trai khốn nạn của ông xui khôn xui dại bán cơ ngơi cả đời mẹ nó gây dựng
để về quê. Là ngày mớ quần áo, đàn, nhị, sênh phách và tấm thân mù lòa bị đứa
con dứt ruột ném vào chuồng chó.
Ông rời con
Thắm đúng vào ngày giỗ Tổ. Hôm ấy nó đi vắng. Hôm ấy mâm cơm đạm bạc đang nằm
trên bàn thờ đợi chờ thụ lộc. Giỗ Tổ nghề hát mà không hát thì còn gì là giỗ.
Ông khao khát. Ông buồn bực. Ông lần lần mở cổng sau, ra vào, ngóng đợi, dẫu
chẳng biết ra vào ngóng đợi cái gì.
Làm bạn với cái
cổng sắt lạnh lẽo chán ông đang định vào nhà thì phía cuối ngõ có tiếng ồn ào,
tiếng sênh phách náo nức, rồi tiếng hát văn cất lên:
- Xưa nay hổ cậy thần rừng
Thần rừng cậy hổ cho lừng tiếng thiêng
Gặp thời thần thánh chung chiêng
Oai danh ông hổ liêng biêng cuối giời...
Tiếng hát da diết, xa xót, mở đường mở lối, khơi dựng lại thời bị gậy
lòng thương làm lòng ông như ruộng ải gặp nước, khiến chiếc gậy trong tay ông
lò dò, lọc cọc.
Người ta bảo Thánh đường hút hồn con chiên, Cửa Phật hút hồn phật tử, hát
xẩm hút hồn dân dã cấm sai. Giữa thời buổi chụp giật giời, chụp giật nhau mà
cây gậy của kẻ mù lòa dựng sát vào chân đến dập bã trầu mà không ai biết thì
tiếng hát của những kẻ tật nguyền tìm kiếm lòng thương còn nơi cư ngụ.
Sau tiếng vỗ tay hào hứng mọi người nhận ra ông già mù hay hát, tiếng
chào cụ, mời cụ ríu rít làm ruột ông nở từng khúc, có gì đó thúc lên từ bên
trong khiến ông như lên đồng:
- Anh đây mục hạ vô nhân
Nghe em nhan sắc, lòng xuân não nùng
Dù em mặt phấn má hồng
Dửng dưng anh chẳng thèm trông làm gì...
Nghe em nhan sắc, lòng xuân não nùng
Dù em mặt phấn má hồng
Dửng dưng anh chẳng thèm trông làm gì...
Nghề
chạm nghề, lòng chạm lòng, ông chưa ngừng lời thì người đàn bà đã cất tiếng:
- Anh đây mục hạ vô nhân
Nghe em nhan sắc, lòng xuân não nùng
Nghe em nhan sắc, lòng xuân não nùng
Dù em mặt phấn má hồng…
Ông ngỡ ngàng, mắt sáng, tai sáng, hai tay thành
hai cánh, người lửng lơ, chơi vơi.
-
Dù em mặt phấn má hồng
Dửng dưng anh chẳng thèm trông làm gì
Lấy anh đi chứ làm gì
Tay thì dắt díu , tay thì tay thì quàng vai
Vén tay sờ chỗ em ngồi...
Dửng dưng anh chẳng thèm trông làm gì
Lấy anh đi chứ làm gì
Tay thì dắt díu , tay thì tay thì quàng vai
Vén tay sờ chỗ em ngồi...
Hai
khe lạch chập một, háo hức, mời mọc, say sưa, vô tư, như duyên, như nợ. Mâm cỗ ái
tình bày ra. Ngọt ngào, cay đắng, giãi bày, nhắn nhủ bày ra. Cả đám đông tai tự
to, gáy tự ngứa, lòng tự nhận, tự cho, ai nấy bâng khuâng thấy chẳng bằng
người.
Sau
chừng nửa canh giờ phục vụ ông mời người đàn bà về chỗ gọi là nhà của mình. “Đồng
thanh tương ứng”, hai người hỉ hả hàn huyên quên giời quên đất, cả hai không
biết đứa con nanh nọc của ông vừa về đến đầu phố đã cho chui qua tai lời tanh
lời thối, đã nổi tam bành thề bóp nát người nào làm ô danh ả. Vừa bước qua cổng
ả đã tru tréo, đã xồng xộc tung hê mâm cơm cúng ra sân rồi thẳng cánh đặt dấu
ấn vũ phu lên mặt bà. Đau xót, nhục nhã, ông loạng quạng nhặt cây nhị, loạng
quạng dắt bà ra ngõ...
Tiếng
e hèm của bà làm ông bừng tỉnh.
-
Tôi tính thế này không biết có phải hay không?
-
Có chuyện gì cứ bày ra đi, úp úp mở mở, sốt ruột!
-
Tôi nghĩ hay mai mình về quê đi!
-
Về quê?
-Ừ!
Thì mình cũng phải về một chuyến, phiêu bạt mãi rồi!
-
Nhưng...
- Hổ
chẳng bỏ được con, nó hắt hủi thì làm giỗ Tổ xong rồi đi.
- ...
-
Mà mình cũng nên cúng cái nhẫn cho đền đi, cũng là chút lòng thành với làng,
với Tổ.
Ông
quay lại phía bà, những giọt nước mắt nặng nhọc ứa ra trên đôi mắt từ lâu trốn
ánh mặt trời.
* *
*
Quá
trưa hai ông bà mới về được đến nhà. Chị giúp việc cho con Thắm bảo bà chủ đi lấy
hàng mai mới về làm cho cả ông cả bà như vừa ngóc từ bùn lên. Bà lọc cọc dắt ông
vào cái “chuồng chó”, lọc cọc ra chợ, khoảng hơn canh giờ sau những nén nhang
trên bàn thờ đã uốn hình dấu hỏi.
Con Thắm về...
Cả
ông, cả bà, cả chị giúp việc bàng hoàng, run rẩy. Gối bà chưa kịp khuỵu, tay ông
chưa kịp chắp thì giông bão đã ném hai người ra khỏi cổng. Hai người đang lủi
thủi, luẩn quần trong lò nắng quái thì những tiếng chào hỏi líu ríu vây quanh.
Nụ
cười trở lại trên môi ông. Tưởng người ở đâu, hóa ra là các phường hát về giỗ
Tổ, thành tâm thành ý rồi họ tiếp tục dắt díu nhau bước ra con đường gió bụi.
Đúng
là cái tình của xẩm, gặp nhau là tay bắt mặt mừng, là hể hả chuyện xưa chuyện
nay. “Cái tình là cái chi chi” lặng hơi khuất bóng hai ông bà mới nhớ tới việc
cần làm.
Trên
đền.
Đám
giỗ đã tàn nhưng dư âm vẫn ngổn ngang, đám người phục vụ, ăn theo ngả chiếu bạc
ngay dưới chân bệ thờ Đức Thánh Sư sát phạt.
Ông
bà bước qua cửa đền. Đám bạc ngẩng lên, những con mắt đỏ đọc vuốt qua cân đo
nặng nhẹ của con mồi rồi lại gằm xuống chiếu.
Nhưng
những tiếng: cúng tiến... lòng thành... nhẫn vàng... bắt chúng ngước lên, nhất
là gã Lé. Từ lúc bà mượn ông thủ đền cái đĩa con gã đã thấy cặp đôi một mù một
thọt này không bình thường, lúc cái nhẫn vàng chóe rơi đánh keng trên nền gạch
thì con mắt còn lại trên khuôn mặt hình môm cày đẽo hỏng của gã thành cái que
hàn chập điện. Bỏ mặc những con mắt chữ A mồm chữ O với hai kẻ giời đầy gã chuyệnh
choạng rời chiếu. Về tới nhà, gã tìm chai rượu ngửa cổ tu ừng ực, người ngợm
như bị cả thanh sắt nung chui qua lỗ đít...
Mẹ
mày! Xưa nay ăn mày cúng thánh cúng phật tiền nong hào phóng lắm mệnh giá cũng
chỉ cỡ chục nghìn. “Tiểu nhân phòng bị gậy”, không mươi cái nhẫn dắt lưng bố
chúng mày cũng chẳng dám mổ trâu đãi làng.
Mẹ
mày! Không biết bố mày đang khát nước, lúc này mẹ tao có váy mới tao còn quẳng
lên chiếu bạc, xá gì ngữ mù lòa què cụt như chúng mày.
Mẹ
mày! Đã trêu ngươi bố mày thì cho mày chết. Bố mày tay nhúng chàm trăm lần thêm
lần nữa chẳng qua chỉ đổ thêm mực vào đêm chứ là cái đéo gì.
Mẹ
mày!...
Gã
dốc nốt chút rượu trong chai, ném vốc nhân cách còn sót xuống vũng trâu đằm rồi
khật khưỡng ra bờ đê nằm khểnh chờ hai con mồi.
Gã chẳng
phải đợi lâu, khi ngày đêm dùng dằng lôi kéo thì hai cái bóng xiêu vẹo đã mọc
trên mặt đê. “Cọc cạch, quờ quạng thế kia không trốn đêm trong điếm canh thì
trốn vào mả bố chúng mày à.” - Gã ngửa mặt lên giời cười sằng sặc rồi lim dim,
lim dim.
Gã
giật mình tỉnh dậy. Trên trời trăng sao bày cỗ, dưới đất mặt cỏ đẫm sương. Nhớ
ra việc cần làm gã lững thững theo sống đê đi ngược. Trong cái điếm hoang, qua
ánh trăng lỗ mỗ gã thấy hai con mồi như hai con tôm chết vứt cầu thả trên cái ổ
rạ vơ vội.
Gã
rút dao song tiếng gáy khò khè, đứt quãng mách gã nhẹ tay. Đặt con dao xuống
nền đất gã chắp tay vái giời vái đất rồi lần lần vuốt dọc từng con mồi.
Không
nhẫn vàng nhẫn bạc, thậm chí hình thù giống nhẫn như hộp dầu cao con hổ cũng
không.
Gã
tỉ mẩn tháo hết những cái kim băng đậy nắp túi con mồi, nhưng trong túi chỉ có
nắm tiền lẻ. Hai con tôm còng queo cùng nắm tiền nhàu nhĩ làm gã động lòng, hít
một hơi tràn phổi, trả lại nắm tiền vào túi áo chủ nó, nhặt con dao đút túi, gã
lững thững ra ngoài. Vừa bước khỏi cửa điếm gã đã vấp phải một bóng áo trắng, theo
phản xạ gã ra đòn tới tấp, khiến cho bóng áo trắng lăn lăn mấy vòng rồi chúc
đầu xuống vũng trâu đằm dưới chân đê.
Gã
Lé chui vào đêm nhưng đầu óc gã vẫn lùng bùng không hiểu tại sao nửa đêm gà gáy
vẫn có bóng đàn bà chui vào cái điếm canh mông quạnh, gã đâu ngờ bóng áo trắng
đó chính là đứa con gái quý hóa của ông già mù. “Qua mười miệng con cóc thành
con giải”, ả phát rồ lên khi bà hàng xóm bảo tận mắt nhìn thấy lão mù lấy một
cái nhẫn trong chuỗi nhẫn vàng dài như chuỗi hạt của sư thầy để cúng nhà đền.
Phải lôi lão mù về. Không về bắt phải về. Không bắt về được thì cho chầu ông bà
ông vải. Chuỗi nhẫn đó phải là của ta... Đầu óc ả quay cuồng. Chân tay ả cuống
cuồng. Mồm miệng ả líu ríu. Ả dò hỏi, lần tìm, quên đói, quên sợ, đến lúc sắp
sờ được đích thì kẻ cắp bà già đụng nhau. Gã cũng đâu ngờ, sau lúc nhận đòn ả lê
lết về được đến nhà song bùn đất cứt đái lưu cữu của vũng trâu đằm làm hai con mắt
ả vĩnh viễn làm bạn với bóng đêm. Song gã biết, sáng hôm sau hai ông bà xẩm
thản nhiên đón ánh mặt trời, thản nhiên tiếp tục con đường tìm kiếm lòng thương,
bởi hai người đâu biết đêm qua sóng gió bão bùng vây quanh cái điếm canh trống
hơ trống hoác.
Đ.H.N
Một truyện ngắn có nghề sâu sắc. Tôi đọc đã nhiều tác phẩm của ông nhưng tôi cảm thấy đây là một truyện hay. NHân văn đến cùng, số phận đến cùng, thắt chuyển linh hoạt Chúc mừng ông .
Trả lờiXóaCháu đã đọc truyện ngắn của chú. Thân phận con người hiện lên trên nền văn hóa dân gian. Cái ác bị sênh, phách nhấn chìm...
Trả lờiXóa