Thứ Năm, 24 tháng 7, 2014

THƯA MẸ

Mười ba tuổi con làm dâu họ Mã
Đo nương nhà người bằng nước mắt rơi rơi
Mười bốn tuổi con đã là thiếu phụ
Ngồi tẽ ngô, tẽ tơi tả đời mình
Mười lăm tuổi cõng con về thăm mẹ
Như trâu be đeo ách giữa nương cằn.

Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014

"Bão trở" - Khúc tráng ca về người Dao.

Lộc Bích Kiệm
                                                                                     
Viết về đồng bào các dân tộc thiểu số là đề tài các nhà văn luôn quan tâm, đặc biệt là các nhà văn sống và làm việc ở miền núi. Đã có nhiều tác phẩm thành công tiêu biểu về đề tài này như Tây Bắc của Tô Hoài, Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành... Thời kỳ đổi mới, ta được đón nhận những tác phẩm như Đàn trời, Ngôi nhà xưa bên suối, của Cao Duy Sơn, Thổ phỉ của Đoàn Hữu Nam, Rừng vàng của Vũ Ngọc Chương... và nhiều tác phẩm khác. Các tác phẩm này chủ yếu viết bằng thể loại văn xuôi, ít người khai thác để thể hiện bằng trường ca.
 Là một thể loại văn học, "là bài ca dài có cốt truyện hoặc sườn truyện" trường ca thường được viết bằng văn vần, chuyển tải nguồn cảm xúc lớn lao, dài rộng của tác giả, phản ánh hiện thực cuộc sống của một cá nhân hoặc cả cộng đồng gắn lền với những sự kiện và biến cố lớn có thể làm thay đổi cả cuộc đời và số phận của cá nhân hoặc cộng đồng ấy. Lịch sử văn học Việt Nam ngoài những trường ca cổ điển tiêu biểu như Đẻ đất đẻ nước của dân tộc Mường, Trường ca Đăm San của dân tộc Ê-đê… đã có những tác phẩm hiện đại đi vào lòng người như: Theo chân Bác của Tố Hữu, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước hình tia chớp của Trần Mạnh Hảo, Đường tới thành phố của Hữu Thình, Trầm tích của Hoàng Trần Cương, Bài ca chim chơ rao của Thu Bồn... Chính những trường ca này đã làm giàu có và phong phú thêm cho kho tàng văn học nước nhà.
Nhà văn Đoàn Hữu Nam "có duyên vi văn chương bt đu t thơ, truyn ngn, nhưng thành công hơn c là tiu thuyết. Tiu thuyết ca Đoàn Hu Nam phn ánh khá phong phú hin thc min núi nhng năm sc sôi cách mng giành chính quyn và tiu ph vi nhiu biến c lch s gn lin vi đi sng ca cng đng các dân tc các tnh min núi phía Bc nước ta, đc bit là Lào Cai - mnh đt đã gn bó máu tht trong quá trình sáng tác ca ông"*. Vi Bão trở, Đoàn Hữu Nam la chn th loi trường ca để thể hiện, phải chăng đây lại là một sự thể nghiệm mới của tác giả. Từ nguồn cảm xúc lớn lao, dài rộng, từ hiện thực sinh động, huyền bí, từ ngòi bút hiện thực và trữ tình của nhà văn, trường ca Bão trở ra đời với một dung lượng trên một nghìn câu thơ. Có lẽ đây là trường ca đầu tiên viết về người Dao ở Lào Cai nói riêng, người Dao ở Việt Nam nói chung và cũng là trường ca đầu tiên khai thác sâu vào công cuộc tiễu phỉ gian nan của miền Tây Bắc. Tác phẩm thể hiện tư tưởng nhân văn, tư tưởng nghệ thuật sâu xa của tác giả.
Qua Bão trở người đọc có cảm xúc mê say và có phần choáng ngợp! Cảm xúc ấy được truyền từ cảm xúc chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca. Ngợi ca hành trình lịch sử, hành trình văn hoá gắn bó với sự tồn tại và phát triển của cộng đồng người Dao - một cộng đồng người có hoàn cảnh điều kiện sống khá đặc biệt trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cảm xúc ngợi ca ấy bao hàm cả sự bi thương và  hùng tráng.     Sự bi thương của bi kịch vượt lên những thách thức của dân tộc, sự hùng tráng từ tinh thần và sức sống của cộng đồng.
Cảm xúc ngợi ca về sự hình thành và phát triển nòi giống cộng đồng người Dao từ buổi sơ khai:
"Cha tôi bảo nước hình thành từ bản
Bản hình thành từ nhà
Nhà hình thành từ lý lối
Lý lối là mặt trời
Mặt trời ngày ngày mang lược vàng trải khắp rừng khắp núi
Lý lối là mưa rơi
Mưa tưới nhuần bờ bãi
Lý lối là khe lạch
Cộng vào thành suối thành sông"
Đọc những dòng thơ này ta bắt gặp sự lý giải về nguồn gốc cộng đồng với một cảm xúc thiêng liêng có tính chất suy nguyên huyền thoại. Một ngày xa xưa cộng đồng người Dao đã hình thành như thế, sự hình thành và gắn kết bắt đầu từ việc tạo dựng nơi ăn chốn ở, là lẽ sống yêu thương đùm bọc chia sẻ với nhau, cùng nhau vượt qua những thử thách trong cuộc đời. Đó là bài học đầu tiên và cũng là bài học cao quý nhất của cộng đồng. Chúng ta cũng từng bắt gặp cảm xúc và cách lý giải này ở những trường ca kinh điển như Đẻ đất đẻ nước, Trường ca Đăm San, Mặt đường khát vọng, Đất nước hình tia chớp... khi các trường ca này đều có chức năng suy nguyên, cắt nghĩa về nguồn gốc sự vật, hiện tượng, giống nòi... Lấy ví dụ đoạn trich Đất nước trong trường ca Mặt đường khát vọng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm viết:

                   "Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

                   Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể

                   Đất nước có trong miếng trầu bà ăn

                   Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc

                   Tóc mẹ thì búi sau đầu

                   Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

                   Cái kèo cái cột thành tên

                   Hạt gạo phải một nắng hai sương say giã giần sàng

                   Đất nước có từ ngày đó".

      Trong Đất nước hình tia chớp nhà thơ Trần Mạnh Hảo viết:

                          Nằm trong bụng mẹ đã nghe
                          Chín mươi chín đỉnh chở che sông Hồng
                          Một trăm trứng của Tiên Rồng
                          Lên rừng xuống biển vẫn dòng Rồng Tiên
                         Tiếng đàn bầu mẹ cất lên
                           Núi đang chạy cũng tìm bên biển nằm
                           Tiếng đàn chợt bốn nghìn năm
                          Mà con ngỡ tưởng như lần đầu nghe”

 Chính từ cảm xúc nền tảng, cảm xúc thiêng liêng cao cả đó mà độ bền, độ dài rộng của cảm xúc trường ca vượt ra khỏi cái giản đơn hằng ngày hoặc cái tôi trữ tình thuần túy. Không gian của Bão trở là không gian cuộc sống người Dao với những biến cố lớn lao về lịch sử, về văn hoá:

                             "Ông tôi bảo...

                             …. Một đời ăn quả nhiều rừng

                             Uống nước nhiều suối

                             Chân mài đá

                             Đầu mài trời

                             Ông là cây lim không biết già

                             Dây mài không biết chết

                               Ông như ngôi nhà của mình..."

          Nói về "ông tôi" cũng chính là nói về tổ tiên của họ. Đó là sự phác hoạ chân dung người Dao - một chân dung không dễ nhầm lẫn! Tổ tiên, cha ông của họ ngàn đời nay đã lựa chọn cuộc sống gắn bó với núi rừng. Bởi thế cùng với tư thế "chạm trời" là tính cách quả cảm kiên cường của họ. Tư thế ấy, tính cách ấy là sự đúc kết hàng ngàn năm cùng với quá trình sinh tồn và phát triển của cộng đồng người Dao. Họ phải vượt qua những thử thách biến cố lớn lao. Cuộc "thiên di" tìm đường tìm lối, tìm nơi ăn chốn ở như một cuộc cách mạng hành trình tới văn minh của cộng đồng với đầy đau thương và nước mắt:

                                      "Người gục dần

                                      Vật gục dần

                                      Đến con ngựa cõng thờ chữ nghĩa

                                      Cũng ngửa cổ kêu trời rồi lạc hồn vào trời xanh"

          Gian nan là thế, "Nhưng phía trước là con đường sống". Bởi vậy, hành trình ấy không thể khuất phục, không thể thất bại!

          Sau cuộc "thiên di" vật lộn ấy là sự tồn tại, là sức sống, là văn hóa - văn hóa người Dao, văn hóa tác giả gọi là "con đường lý lối" là nếp cảm nếp nghĩ, là phong tục tập quán, là cách sống, là tâm linh của người Dao:

                             "Bao dâu bể tuột trôi ra bể

                             Lòng núi dây mài nuôi trắng trong

                             Nhà nhà om trám nồi đồng

                             Kho cá nồi đất xào lòng khế chua"

Để rồi:

                             “Đêm trước giờ phong sắc dài như nằm đợi tiếng gà

                             Ngắn như những ngày nằm trong vòng tay bà Mụ

                             Ba ngọn đèn rửa sạch tội đã qua

                             Soi sáng ngày sắp tới"

          Bền vững là vậy, thiêng liêng là vậy, nhưng người Dao vẫn chưa hết thử thách, thử thách sau lớn hơn thử thách trước. Giặc Pháp xâm lược nước ta người Dao bước vào kháng chiến! Đây là sự kiện, là biến cố lớn lao của cộng đồng người Dao. Sau cuộc "thiên di", cuộc vượt lên của cộng đồng để đi đến ổn định văn minh, họ lại tiếp tục chung sức chung lòng chung trí để chống lại kẻ thù ngoại xâm. Có thể nói phản ánh hiện thực này Đoàn Hữu Nam không chỉ thể hiện sự thấu hiểu, chia sẻ, cảm thông, trân trọng tinh thần và sức sống của người Dao mà còn đặt ra vấn đề sứ mệnh, trách nhiệm của mỗi dân tộc Việt Nam trong công cuộc dựng nước và giữ nước. "Người Pháp đến", những mái nhà, những bản làng xưa nay vốn cheo leo trên đỉnh núi nay lại càng chênh vênh hơn trong thế đất trời:

                                      “Kiến ong bu vào giành giật

                                      Cả vùng loang lổ màu chàm

                                      Bốt đồn như những cái gai cắm vào da thịt”

          Người Dao đã nhìn thấy rõ bản chất của thực dân Pháp trong việc cai trị và đồng hóa dân tộc:

                             "Tám mươi năm chia ra để trị

                             Tám mươi năm chúng xe nát vùng rừng

                             Tám mươi năm mỗi tộc người mỗi núi

Nhìn nhau như kẻ thù!”

          Đọc những dòng thơ này ta liên tưởng đến những câu thơ của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu ngày đầu chống Pháp, những dòng thơ có tác dụng to lớn trong việc giúp người dân nhận rõ bản chất kẻ thù khi chúng ra công tuyên truyền "khai hóa văn minh":

                             "Miệng bảo hộ mà tay bóc lột

                             Mặt nhân từ mà ruột hiểm sâu"

          Lòng người đau buồn  về  một ký ức xưa khi yên bình, lý lối, thuần phong mỹ tục bị phá vỡ:

                             "Bên này nhấc chảo khỏi vách

                             Bên kia háo hức dọn mâm

                             ...Bên này thái cỏ

                             Bên kia ngựa cười"

          Người Dao nhắc nhau về lòng người, về lời nói:

                             "Lửa không chỉ cháy lan từ gió

                             Lửa cháy lan từ bụng rỗng mồm ròn”

          Thế rồi cách mạng về, người Dao bước vào kháng chiến:

                             "Con đường mới mở ra trang sử mới

                             Dẫn núi rừng đi trong khát khao

                             Cho tôi, cho em và nông nổi

                             Dắt nhau đi trong tiếng trống thì thùng"

          Một cuộc vượt lên về cả thể xác và tinh thần của cộng đồng người Dao:

                             "Cách mạng thế như phường săn đuổi thú

                             ...Bụng ai cũng đầy gió tự thổi

                             Mặt ai cũng rạng rỡ hân hoan"

          Rồi cách mạng thành công, nhưng thành quả ấy không được bao lâu thực dân Pháp lại trở lại xâm lược, đau thương chết chóc lại tràn về:

                             "Trời hết rồi!

                             Người đi không hợp lẽ

                             Người ở lại quên cửa nhà

                             Người tiễn đưa không hương khói

                             Người được tiễn không toàn thây.

 

Trời hết rồi!

Bàn thờ - nơi tổ tiên tụ họp

Nơi người chết chờ người sống

Nơi giữ cho gốc ngọn vững bền

Nổi trôi trên dòng sông nước mắt

Con ngựa cõng linh hồn tổ tiên

Làm mồi cho ngọn lửa!”

“… Rừng hỡi rừng – đàn quạ đã no nê

Những người sống đã chôn người chết

Những người chết chôn tiếng cười người sống

Trong sống, chết, mất, còn, trắng, đen, trong, đục

Người tan tác đằng người, cây héo rũ đằng cây”.

Cảm xúc của tác giả dâng tràn khi mô tả những đau thương chết chóc của dân bản trong chiến tranh. Hình ảnh bàn thờ tổ tiên bốc cháy, hình ảnh người mẹ bị lửa thiêu, hình ảnh máu đỏ nhuộm sông suối bản làng... gieo vào lòng người niềm xót xa thương cảm. Tất cả, tất cả lại theo cách mạng, lại vào cuộc chiến đấu mới để một ngày:

                        “Bước ra khỏi cánh rừng ta gặp dòng sông
Theo dòng sông ta sẽ đi tới biển
Mỗi một bước là cộng thêm dài rộng
Ta vỡ vạc Tổ quốc mình từ mỗi sớm tinh khôi”…

          Chưa hết, bao nhiêu vấn đề sau chiến trận được tác giả khắc họa, đó là sự hoang tàn, là đói rách, là sức cùng lực kiệt, là lòng người, là sự gượng dậy đi lên để lại có một cộng đồng người Dao một dân tộc Dao như ngày nay.

          Cảm xúc thăng hoa, chất trữ tình làm nên chất thơ, chất anh hùng ca của tác phẩm. Nhiều đoạn thơ người đọc dù chỉ đọc lần đầu cũng phải chú ý:

                             "Ông tôi bảo lòng người như lòng sông

                             Có thể nhận muôn vàn con suối

                             Lòng người như lòng núi

                             Đủ để ngàn cây lên xanh"

          Và:

                             "Những đêm chờ mây ăn trăng

                             Cha dẫn tôi về nguồn cội

                             Tôi bắt gặp đất Tam Miêu hùng mạnh

                             Tiếng quân reo tiếng ngựa hý vang trời"

          Có thể nói viết về chiến tranh, về cách mạng đến nay không phải là mới nhưng cũng không phải là cũ. Viết về đồng bào các dân tộc thiểu số làm cách mạng càng là vấn đề không phải đã mấy người viết thành công. Đoàn Hữu Nam viết về người Dao tham gia kháng chiến, người Dao làm cách mạng thật sự là điều mới mẻ trong khám phá. Tác giả lựa chọn thể loại trường ca tựa như tự may cho mình chiếc áo lớn để thỏa sức vùng vẫy, điều này vừa là thuận lợi nhưng cũng vừa là thách thức. Thế nhưng dường như nhà thơ đã vượt qua những điều đó. Bão trở, một trường ca có tính chất bi hùng đã khắc họa khá thành công chân dung, vóc dáng, hành trình, tư thế của cộng đồng người Dao trong suốt cả quá trình lịch sử văn hóa và lịch sử chống giặc ngoại xâm của họ. Những sự kiện, những biến cố làm nên số phận của cộng đồng được tác giả lựa chọn khắc họa thành công, chất trữ tình đậm nét, bởi thế nên sự kiện, cốt truyện được chuyển tải một cách mềm mại, uyển chuyển đi vào lòng người. Tôi nghĩ nếu không phải là người có hiểu biết, yêu mảnh đất và con người sau sắc thì không thể có sự lựa chọn mạnh dạn và khai thác thành công đề tài độc đáo này. Sẽ chưa thể thấu đáo khi bàn về tác phẩm, trong khuôn khổ bài viết này chỉ xin được trình bày một số cảm nhận sau khi đọc bản thảo tác phẩm cùng với tác giả và bạn đọc./.


* Cao Thị Hảo, Ngô Quốc Tuấn




Tiếng thở dài trước khi trời chưa sáng của Đoàn Hữu Nam

                                                (Nhân đọc trường ca Bão trở của Đoàn Hữu Nam)
Ngô Kim Đỉnh

Sau nhiều tập truyện ngắn, tập thơ, tiểu thuyết, kịch bản điện ảnh nhà văn Đoàn Hữu Nam vừa hoàn thành trường ca Bão trở.
Là một nhà văn đang sung sức trên văn đàn cả trên lĩnh vực công tác ở Hội VHNT Lào Cai, anh miệt mài làm việc và viết, ngoài văn, kịch bản điện ảnh và  làm thơ. Thơ anh ít nhiều đã để lại dư âm và dấu ấn trên văn đàn Việt Nam như các  bài: Ngày mai là chợ Khau Vai, Về với mẹ, Giá, Hai mươi năm…, và bây giờ là trường ca Bão trở. Được Đoàn Hữu Nam đưa tập bản thảo Bão trở gần hai nghìn câu tôi chợt nghĩ thập niên đầu của thế kỷ 21 này có phải là “thời của trường ca” không? Mấy năm gần đây, trên làng văn cả nước tôi đã thấy nhiều nhà thơ công bố trường ca, chẳng hạn như Tây Nguyên có nhà thơ Lê Vĩnh Tài, ở Hà Nội có nhà thơ Trần Anh Thái, nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu, ở Tuyên Quang có nhà văn Vũ Xuân Tửu…., và giờ là Đoàn Hữu Nam ở Lào Cai.

Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2014

Bão trở - Trường ca của Đoàn Hữu Nam

Từ chương 16 đến kết thúc

Chương 16
 Những tưởng người đã quên mùa quên tháng
Rừng đã quên ngửa mặt ngóng trăng sao
Trời đất trong vai kẻ thất tình
Chìm trong sập sùi nước mắt!
Trời hửng nắng! Trời ơi trời hửng nắng
Những tiếng reo òa vỡ giữa ngàn xanh
Cây chuối đầu hang xòe tay đón nắng
Cửa hang lố nhố bóng người!

Bão trở - Trường ca của Đoàn Hữu Nam

Chơơng 12 - chương 16

Chương 12
Mùa qua rồi cối đã quên mùi cốm
Chuột đã thôi rửng mỡ trên đồng
Suối thôi réo, kèn môi thôi náo nức
Nghé bỏ đàn ngơ ngác giữa đồi cao

Bão trở - trường ca của Đoàn Hữu Nam

Chương 9 đến chương 11

Chương 9
 Ông tôi bảo đất này tay vua khó với
Đường này ngựa quan chẳng dừng
Bao nhiêu năm đi qua
Bấy nhiêu năm thuyền nào chèo thuyền ấy
Khắp vùng khắc làm khắc ăn
Chèn ép nhau tự chém tự giết
Gặp tai ương tự tìm chung đèn

Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Bão trở - Trường ca - Đoàn Hữu Nam



Chương 1
Bản của tôi bắt đầu từ một nhúm người *
Người từ phương Bắc
 Kẻ từ phương Đông…
Trong mưa đuổi bão dồn
Nghìn người nghìn đường
Đường nào cũng về đất chết
Trăm người trăm lối
Lối nào cũng lấy củ thay cơm
Cùng đường
Họ ngửa mặt xin giời
Cúi mặt xin đất
Giơ tay cầu người!...

Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2014

“Bão trở” - Đặc sản của núi Hoàng Liên

 Hoàng Quảng Uyên

Trường ca Bão trở - Bài ca được “dựng” nên bởi nhiều câu thơ, đoạn thơ! Đó là một định nghĩa theo nghĩa đen. Dài, nhiều chưa phải là tất cả! Quan trọng là hồn cốt, tinh tuý và độ long lanh bên trong. Theo “ Lý lối” này Trường ca Bão trở của Đoàn Hữu Nam “rõ” là dài, nhưng đó chỉ như là chiếc áo khoác tạo sự trang trọng, bề thế! cái hồn cốt, tinh tuý, long lanh bên trong mỗi câu thơ, đoạn thơ mới tạo nên sự vạm vỡ của tác phẩm: Đó là lịch sử cuộc thiên di sinh tử của tộc người Dao - Miêu, là phẩm cách sống của những Người không chịu khuất phục. Quật cường. Dũng cảm và mãnh liệt, tồn tại và vươn lên cường tráng. Đó là tình yêu cuộc sống, tình yêu con người, tình yêu lứa đôi, là những Hỉ, Nộ, Ái, ố... là Dân tộc học, là phong tục, tập quán... tất cả hiện lên trong Bão trở để có thể tự tin mà nói rằng trường ca này là Đặc sản Hoàng Liên Sơn được tạo tác bởi bút lực tài hoa của Đoàn Hữu Nam.

Thứ Năm, 15 tháng 5, 2014

LÝ LỐI, PHONG TỤC, TẬP QUÁN CỦA NGƯỜI DAO ĐỎ VÀ TRƯỜNG CA “BÃO TRỞ” CỦA ĐOÀN HỮU NAM

Nguyễn Văn Tông

  Đưa phong tục tập quán vào thơ là điều khó, vô cùng khó. Thơ không giống như nghiên cứu, không giống văn xuôi, thơ không thể tãi ra, kể lể hoặc phân tích cặn kẽ, song Đoàn Hữu Nam đã mạo hiểm vầ đã khá thành công trong việc đưa lý lối, phong tục tập quán của dân tộc Dao vào trường ca “Bão trở”
Phần lớn cuộc đời của Đoàn Hữu Nam gắn bó với núi rừng, với đời sống đồng bào các dân tộc Tây Bắc. Những năm tháng “ba cùng”, tấm lòng yêu mến và sự say mê khám phá đã giúp ông am hiểu khá tường tận phong tục tập quán của một số dân tộc nơi đây. Sự am hiểu, đam mê khám phá ấy đã được ông chuyển tải qua nhiều bài viết, công trình nghiên cứu, tác phẩm văn học, tiêu biểu là công trình nghiên cứu về lễ cấp sắc của người Dao đỏ, người Phù lá ở Lùng Phình, tiểu thuyết “Trên đỉnh đèo giông bão”, “Thổ phỉ”... và bây giờ là trường ca “Bão trở”.

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

Sa Pa

Rời ồn ã ta tìm về khuất nẻo
Gặp mơ màng sương trắng, nắng lương vương
Lòe xòe váy, lòe xòe mua cùng bán
Giấu giấu khoe khoe rồi cả mắt cả lòng

Ừ thì gió! Gió kề cà lãng đãng
Ừ thì trăng! Trăng khoe tỏ khoe mờ
Sao vẫn thấy lửa bùng trong kẽ đá
Thấy ấm nồng, hể hả giữa mù sương

Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2014

Có thể nào quên

Đoàn Hữu Nam

Có thể nào quên cánh cửa khép hờ
Gà dáo dác trong ráng chiều phấp phỏng
Con đường quê dầy tiếng chân nặng nhọc
Tiếng thở dài chui vào mông lung!

Có thể nào quên mỗi sớm mai về
Bao tia nắng tung hoành qua kẽ vách
Bát cháo loãng trên tay cha hụt hẫng
Tiếng chim báo khách ngập ngừng!

HẠNH PHÚC


          Đoàn Hữu Nam
             Kính tặng anh thương binh Nguyễn Văn Lợi

Non nửa đời người chinh chiến
mang đôi mảnh đạn trong người
khước từ ồn ào phố xá
anh về vui thú ruộng vườn

Chị ru bình yên cho anh
bằng những tháng ngày tần tảo
đồi chè, vườn rau, ao cá
đắp bồi cho một cơ ngơi

Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

Tam Đường mùa hoa ban nở

http://danviet.vn/que-nha/tam-duong-mua-hoa-ban-no/20140320085727180p1c29.htm

Tam Đường mùa hoa ban nở

 - Những ngày tháng Ba, về rừng núi Tây Bắc nói chung, Tam Đường (Lai Châu) nói riêng càng trở lên huyền ảo hơn bởi sắc hoa ban nở.