Thứ Tư, 22 tháng 5, 2013

Thổ phỉ - Tiểu thuyết

Chương 19 - 20 - 21

19
Cả nửa tháng trời Ban chỉ huy chiến dịch tiễu phỉ ngồi trên đống lửa. Suốt những ngày qua ta tác chiến đầy khó khăn. Bọn phỉ ranh ma quỷ quyệt khiến ta luôn luôn bị động, sự bị động vô lý đến mức khóc dở, mếu dở. Một đơn vị được báo bọn phỉ đang tập trung trong núi Ngài Ma. Chỉ huy đơn vị hội ý chớp nhoáng rồi một mặt cho liên lạc cấp tốc báo cáo Ban chỉ huy chiến dịch, một mặt gấp rút triển khai tiến công địch. Kế hoạch sáng suốt, cách đánh cấp tập, bất ngờ, lực lượng đủ để áp đảo đối phương, vậy mà tổ chức bao vây chưa xong thì hỏa lực địch đã phá tan đội hình.
Một tiểu đội bộ đội trên đường hành quân bất ngờ gặp một toán thanh niên vác súng kíp đi trên đường. Gặp bộ đội họ cười nói, chào hỏi bằng tiếng địa phương rất thân thiết. Ngôn ngữ bất đồng, bộ đội nhầm tưởng là du kích liền hồ hởi cán ơn, bắt tay, vui vẻ hẹn gặp lại, nhưng khi bộ đội đi được một đoạn thì tiếng súng chát chúa nổ ngay phía sau. Cả tiểu đội ngã ngửa người, cũng may sẵn tính cảnh giác thường trực nên không có thương vong. Tiểu đội du kích của châu lỵ Phòng Tô chia làm hai mũi xuống dân thì một mũi gặp địch. Hai bên đều thông thạo địa hình, cùng quyết chiến đến cùng. Lửa gặp lửa, hổ gặp hổ, bên nào cũng lợi dụng địa thế hiểm trở để chiến đấu. Bọn phỉ cậy thế đông, hoả lực mạnh, hung hãn ép ta vào sát vách đá. Ta bám giữ từng mỏm đá chống trả. Anh em cùng tiểu đội ở mũi kia nghe tiếng súng nổ liên hồi biết đồng đội chạm trán phỉ vội triển khai cứu viện. Bọn phỉ một mặt quay lại đối phó với mũi cứu viện, một mặt đánh rát nhóm bị phục kích. Hai đội viên du kích bị trúng đạn ngã xuống, một người bị sa vào tay chúng. Tình thế quá gay go, hai mũi du kích phải ám hiệu cho nhau rồi chia làm hai hướng mở đường máu chạy thoát vào rừng.
Lại nữa.
Lại nữa…
Sự thất bại liên miên trên khắp mặt trận làm cho Long hoang mang như chính mình đang đi sai đường. Việc thuận theo bọn phỉ để được yên thân của người dân đã làm bao những lời lẽ giáo điều bị lật ngược. Những việc làm từ trước tới nay của Long có vi phạm nguyên tắc, có đi ngược chủ trương, đường lối của cách mạng không? “Một người tướng biết dùng binh là kẻ giữ gìn sinh mệnh của dân, là người làm chủ sự an nguy.” – Long đã hiểu, đã làm. “ Quản lý đông người cũng phải rành mạch như quản lý ít người; lúc bình thời cũng phải cẩn thận như  lúc có địch; lúc ra trận thì không nghĩ đến sự sống của mình...” - Lời dạy của Tôn Tử, Long  thuộc nằm lòng, thường xuyên coi là mệnh lệnh, là kim chỉ nam cho mọi hành động, vậy mà…
Long bỏ lán một mình lang thang trong rừng.
Cả vùng trời phía Tây đỏ ối như nhuộm máu. Tán sắc của mặt trời đang hấp hối khiến Long rùng mình, linh cảm tới vạn vật đang tới ngày tận thế.
Rồi rừng vào đêm xao xác, câm lặng, hờ hững. Đám lá khô dưới chân Long rạn vỡ, nát vụn. Dọc theo bên cạnh lối đi, đất núi rỉ ra những giọt nước nhớp nhúa. Những đỉnh núi lô nhô dần nhuộm màu tím sẫm. Bóng tối từ hang hốc bò nhanh ra trùm lấp vạn vật, thoáng chốc màn đêm bưng bít, bủa vây khắp trời, khắp đất...
Tự nhiên trôi trong tự nhiên. Bước chân trôi trong bước chân. Rồi cũng trong tự nhiên, trong bước chân vô định, tự nhiên Long giật mình. Anh chợt nhận ra mình đang đơn lẻ, đang hun hút giữa rừng đêm. Lạc mà không lạc, đúng mà không đúng, ý nghĩ phản kháng bùng lên trong đầu. Không! Ta sẽ khuấy tung cái ý thức xuôi chiều, khuấy đảo cái trật tự mà người ta đã đưa vào đầu nhiều người đến  thâm canh cố đế. Làm việc này có thể ta sẽ bị hút tụt xuống vực thẳm, có thể ta sẽ nổi trôi trong tan vỡ song ta không thể không làm. Lịch sử đã đặt lên vai ta, vai Siểu, vai những cán bộ cách mạng đất Phòng Tô. Làm cho cây cối đất này mãi mãi đơm hoa kết trái, con người đất này mãi mãi sinh sôi, không lá tre ghè trúc, lấy học hành, vươn tới làm mục đích sống thì còn hơi thở cuối cùng cũng phải làm. Đó là chính là mục tiêu của cách mạng, là con đường mà ta và những người như ta đang dấn thân vào. Mục tiêu đến đây không thể rẽ hướng. Con đường đến đây không thể nghẽn tắc. Muốn đi tiếp, muốn chiến thắng phải chấp nhận phiên lưu, chấp nhận thành bại.
*
*     *
Được báo có cuộc càn quét của Việt Minh vào rừng Sán Chải, Sắn điều hơn một trăm quân cho cuộc phục kích. Trận đánh được hắn chuẩn bị khá kỹ lưỡng. Trên một mỏm đồi hắn chậm rãi vuốt chòm râu dê, mắt lim dim nhìn xuống con đường chui sâu vào trong rừng, nơi có hơn một trăm chiến binh mai phục đợi lệnh. Hắn chờ trận đánh chuẩn bị sảy ra dưới chân mình như kiện tướng chờ bước vào ván cờ mà phần thắng đã cầm chắc trong tay. Đám tùy tùng lây theo cái ung dung, tự tin của tổng chỉ huy. Kẻ trèo lên cây hào phóng phóng tầm mắt ra bốn hướng. Kẻ ngồi cạnh ánh mắt nịnh nọt hau háu nhìn từng cử chỉ của chủ, chỉ cần hắn có động tác nhỏ thôi là những cái mỏ nặn bằng bột nếp có dịp bung ra những lời nịnh nọt. Kẻ chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc ăn chia với cánh quân mai phục.
Mặt trời đã lên cao mà con đường chui sâu vào trong rừng vẫn im ắng. Những tia nắng đã sốt ruột rang khô mặt đất. Cây cỏ, chỗ ngồi của cả bọn trên mỏm đồi đã rã cỏ, đá lộ. Bóng của mấy cây sến già đã lặng lẽ thu dần lại. Những chú chim họa mi hót mỏi mồm không cổ vũ được ai đã chán nản. Mấy kẻ chờ đợi đã sốt ruột, bực bội đi đi lại lại. Vàng Seo Hùng vừa nhai mẩu thuốc, vừa ngóng xuống con đường. Chợt mắt Hùng sáng lên, cửa rừng đã lố nhố những người là người. Bộ đội áo quần, súng ống chỉnh tề, dân quân du kích quần áo xộc xệch. Người súng trường, kẻ súng kíp, người mã tấu, kẻ dao dài, đội quân nhiều màu áo đan vào nhau, lặng lẽ bám theo nhau trên con đường độc đạo. Người cậy quân đông, súng tốt nghênh ngang, lấc láo. Người biết mình chui vào hang cọp, nem nép trông trước, trông sau... Mặt trời đã thả xuống nhữug tia nắng chói chang. Cả khu rừng chết lặng, thi thoảng cơn gió hiếm hoi lướt qua đánh động làm cho lo sợ, hồi hộp càng lúc càng dâng lên.
 Sắn cùng đám tùy tùng theo dõi sát từng bước tiến của đối phương. Dưới chân hắn, tốp bộ đội, du kích đầu tiên đã đi qua những giàn bẫy đá, tốp thứ hai đã lọt qua ổ phục kích, tốp thứ ba bám theo tốp thứ hai.
Sắn đếm được năm tư thằng đi vào mõm thú. Tốp đi đầu sắp lọt vào ổ phục kích của ba khẩu trung liên. Ba cái họng của thần rồng Pháp để lại được ướp trong mỡ bò, chôn sâu trong đất đến lúc này được lôi ra dùng. Có lẽ thấy khu rừng yên ắng, thấy lời báo của cơ sở không tin tưởng nên chúng dần chủ quan, nhìn dọc, nhìn ngang, cười đùa, bẻ lá. Bỗng một tên giương súng lên trời bắn, làm cả bọn giật mình. Sắn cũng hoảng hồn, hắn hét lên:
- Bắn!
Tiếng hô vọt ra khỏi miệng Sắn như quả trái pháo vọt ra khỏi nòng. Hưởng ứng lời hô của Sắn là mấy chục khẩu súng thi nhau nhả đạn, mười hai cái bẫy ầm ầm đổ đá xuống mặt đường, những cái bẫy đòn quật ngang thân người vút ra.
 Ngay loạt đạn đầu cả đội hình bộ đội, du kích rối loạn, mạnh ai nấy lấy bụi cây, tảng đá làm cứu cánh, người chỉ huy vội hét lên:
- Hãy bình tĩnh, không được rối loạn.
Tiếng hét của người chỉ huy vuột đi trong những làn đạn chéo cánh sẻ. Tiếng đạn rít, tiếng đá đổ, tiếng kêu trời tắc nghẹn bay lên chỗ Sắn. Từ phía Tây hàng ngàn con quạ rào rào bay tới, che rợp bầu trời. Tiếng kêu quang quác của loài báo thần chết làm đối phương thất kinh song là bữa tiệc mừng của Sắn, hắn đưa bong bóng rượu lên nhấp một ngụm rồi đưa cho Vàng Seo Hùng:
-       Uống đi!
Hùng đỡ bong bóng rượu rồi ngây người nhìn xuống chân đồi. Ở dưới đó, bộ đội, du kích sau phút hoảng hồn, lúng túng đang cố lấy lại thế chủ động, song biết đã rơi vào thế bất lợi các tốp đang co cụm lại yểm hộ cho nhau, tự trấn an bằng cách bắn như vãi đạn vào các lùm cây, tảng đá, tiếng súng thị uy, lấy lại tinh thần lạc lõng như bắn vào chỗ không người.
- Đã đến lúc rồi đây – Sắn lẩm bẩm rồi bật dậy, lên ngựa, khoát tay, lập tức mấy chục tên lính nhảy lên ngựa. Sắn phóng trước, cả bọn phóng theo, tiếng người thét, đạn réo, những ngọn roi bổ xuống làm cho những con tuấn mã điên lên, chúng phóng rầm rập xuống núi, lao vào đội hình đang co cụm của đối phương.  Đoàng… đoàng..., vút... vút..., những tiếng súng nổ, những nhát gươm bổ xuống tới tấp. Cả đội hình bộ đội, du kích rã ra. Kẻ bị thương, kẻ hồn lìa khỏi xác, kẻ giơ súng, giơ tay lên đỡ kiếm, rồi mạnh ai nấy chạy. Một người bị nhát gươm bổ xuống rú lên. Một người bị nhát gươm phạt đứt cánh tay vừa rú vừa quay tròn như múa. Một người bị giáo cắm phậm xuống làm đứt đôi bàn chân, bật lên nhảy lò cò như phát rồ. Mấy người bị thương máu me bê bết nhưng vẫn lỳ lợm chống trả...
Tiếng súng thưa dần rồi im bặt.
Hai tên lính chạy lại báo tin thắng trận cho Tổng chỉ huy. Bọn Kinh áo nâu, Kinh áo đen, Kinh áo xanh chết mười thằng, bị thương năm thằng, quân của thủ lĩnh không mất một giọt máu, thu được mười hai khẩu súng các loại.
Cả bọn hỉ hả công kênh nhau reo hò vui sướng.
Sắn vẫy tay cho bộ tướng rồi lững thững đi dọc nơi vừa sảy ra chiến sự.
Chiến trường còn vương mùi thuốc súng. Mười thằng chết mỗi thằng mỗi kiểu, thằng nằm úp sấp xuống mặt suối cạn, thằng ôm ghì lấy tảng đá, thằng trước khi chết vùng vẫy nát cả một đám cỏ... thằng nào cũng mắt mở trừng trừng, như ngạc nhiên, như không muốn từ giã cõi đời.
Sắn săm xoi từng xác chết, rồi hất hàm hỏi tên đội trưởng:
- Có biết danh tính bọn này không?
Tên đội trưởng bị bất ngờ, lúng túng:
- Dạ không, nhưng nhìn cách ăn mặc và súng ống thu được thì thấy toàn là bọn lính quèn.
Sắn thở dài:
- Cơ hội thế mà giết được toàn bọn nhãi nhép thế này thì tiếc thật.
 Một tên lính chạy lại xum xoe:
- Thưa Tổng chỉ huy, chúng ta phải dọn bọn này như thế nào ạ.
Sắn phẩy tay ra lệnh:
- Cho tất cả vào một hố.
 Cả bọn răm rắp làm theo, một lúc sau cả người chết lẫn người bị thương đều nằm sâu trong lòng đất. Sắn nhìn lũ quạ đang đậu kín các ngọn cây kêu quàng quạc, cười mỉn. Dưới lòng đất chúng tha hồ đùm bọc, tha hồ cãi nhau, chỉ lũ quạ đen là tưng hửng mà thôi.
Không khí chiến thắng trào dâng, rạng rỡ trên từng nét mặt, từng cử chỉ. Cả trăm con mắt hướng cả về phía Tổng chỉ huy, người tự mình vạch ra, tự mình chỉ huy trận đánh “dụ dê vào miệng cọp”.
Sắn lâng lâng như vừa tu cả vò rượu. Sau trận thắng này khí thế của Mặt trận Phòng Tô sẽ bốc lên đến tận giời. Còn chờ đợi gì mà không khuấy tung đống lửa này lên. Sắn lên ngựa nhìn khắp lượt, đôi mắt đạo sỹ ôm ấp, vuốt ve từng cơ thể tràn đầy hứng khởi:
- Thưa anh em! Sau trận thua nhớ đời này bọn chính quyền sẽ ruỗng từ trong ruỗng ra, nát từ ngoài nát vào, còn chúng ta, bão đã nổi, nước đã tràn, cái đích đang đến gần, các chiến binh muôn năm.
Tất cả ồ lên những tiếng muôn năm, một tên nhảy lên mô đá giương súng lên trời, bóp cò. Hàng trăm tay súng bóp cò theo. Sắn hùng dũng cưỡi ngựa đi giữa hai hàng quân. Sau hắn là các bộ tướng thân tín. Hắn mỉn cười ra ơn. Khởi sự lần này, thắng lợi lớn nhất của các toán quân không phải là giết được đối phương mà là cướp được của cải. Ngô lúa từ các kho lẫm của chính phủ tranh nhau chảy vào các bao tải lên lưng ngựa chạy về các nhà. Trâu bò, ngựa tự nhiên là của chung ai dắt thì dắt, ai mổ thì mổ, phỉ làng này cướp của làng kia, phỉ của bản  kia cướp của bản này, hầu nhà nào cũng được cướp, nhà nào cũng mất cướp. Tiếng giằng xé, kêu cứu rền rĩ cả vùng song cả vùng cũng hoan hỉ với những cái được mang về. Rồi hãm hiếp đàn bà, con gái. Những kẻ từ bé chưa trông thấy cái l... nào, những kẻ bệnh hoạn được phép cộng thêm của lạ, những kẻ theo đóm ăn tàn, những kẻ lấy nơi sung sướng làm nơi trút thù, trút hận..., tất cả như phát rồ, nhìn thấy người mặc váy, quần ngắn, quần hồng, quần xanh là chúng lao vào cắn xé, thỏa mãn. Đánh giết, cướp bóc, hãm hiếp làm nên thù hận ngút trời, làm cho cả vùng kinh sợ. Sắn đang cần thù hận, kinh sợ. Thù hận, kinh sợ khiến dân chúng hoặc phải theo, hoặc phải co đầu vào trong mai rùa. Thù hận dồn quân tướng của hắn đến cùng đường, không theo không được. Thù hận, kinh sợ tách đội quân của hắn ra khỏi trời yên, biển lặng, đẩy cả ngàn người xuống dòng sông ngầu bọt. Cùng khốn cũng là một cái hay, nó thể hiện sức mạnh của kẻ chinh phục, đo được uy vũ với dân chúng. Sự tập hợp vội vàng có thể tạo ra một đội quân ô hợp, song ở thế buộc phải tồn tại thì đội quân ấy buộc phải tự điều chỉnh, tự hoàn thiện mình. Thù địch làm cho chúng không có đường rút, chỉ có đường tiến lên. Đấy là hôm qua, còn hôm nay... Sắn vui mừng, hắn xứng đáng để bọn chúng tung hô, ca ngợi. Thông thường trong chiến trận các thủ lĩnh thường mượn nhà cửa, hang hốc làm cái mai rùa. Trong nhà cửa hang hốc đó anh ta như một thánh minh, bệ vệ, quan trọng, trước mặt, xung quanh anh ta là sa bàn, bản đồ, là đám hầu cận sẵn sàng đợi lệnh, mỗi cái nhíu mày là có điều quân, có tiến đánh, hoặc rút lui. Sắn khác, hắn sẵn sàng một mình một ngựa xông pha nơi chiến trận, quyết định tại chỗ, thưởng phạt tại chỗ, hắn là linh hồn cho các chiến hữu trông vào thì làm sao mà không xứng đáng.
20
Thấy rõ việc phỉ nổi  ở Phòng Tô ảnh hưởng tới an ninh, chính trị, kinh tế của cả vùng, không dập cháy đám cháy nó sẽ lây lan tới khắp miền núi của Miền Bắc đất nước, Khu 10 điều một lực lượng lớn bộ đội, công an biên phòng, cảnh sát vũ trang lên Phòng Tô sát cánh cùng với lực lượng tại chỗ đánh phỉ. Với phương châm đánh tan bọn phản loạn, đánh đến đâu, cắm chốt đến đấy ta đã khiến Mặt trận Phòng Tô tự trị tan tác như bèo gặp lũ, khắp vùng náo động, không ăn thịt được đối phương thì quay ra ăn thịt nhau. Cảnh tượng luẩn quẩn rắn ăn thịt rắn, người ăn thịt người của đầu những năm mươi lặp lại làm cho Sắn điên đầu. Hắn khống chế quân tướng rút sâu vào trong rừng. Trong hiểm nguy hắn tỏ cho cả Mặt trận thấy năng lực của kẻ cầm quân. Bị bộ đội biên phòng, công an truy sát, hắn cho lính chạy lòng vòng. Đối phương trên núi, hắn cho thoát xuống chân núi. Đối phương ở chân núi, chúng trễm trệ trên đỉnh. Biến hóa khôn cùng của hắn khiến quân, tướng rất mệt nhưng toàn vẹn, bĩ nhưng còn chỗ cho lối thoát, cho ý nghĩ không biết kẻ nào thắng kẻ nào bấu víu. Chưa hết, hắn cho tâm phúc phóng ngựa đến từng vùng, kẻ nào cần bạc thả bạc, kẻ nào cần lời thả lời, kẻ nào cần chức thả chức, kẻ nào lừng chừng xiết chặt thòng lọng. Chỉ trong nửa tháng giời ra tay những kẻ chung đường đã tỏ ra hồi tỉnh. Mà không hồi tỉnh không được. Ra hàng ư! - Trong cuộc nổi loạn cả bọn đã gây nợ máu, tổn hại cho chính quyền, cho dân chúng quá nhiều. Bộ đội, công an bắt được không mổ thịt, lột da từng thằng thì cũng bắt từng thằng rũ xác trong tù. Muốn trở lại mỗi thằng cát cứ một phương ư! Chưa nói tới việc chính quyền lợi dụng để nghiến từng thằng như nghiến từng hạt ngô, nguyên những cái thòng lọng của Mặt trận Phòng Tô giăng khắp các nẻo cũng đủ cho những kẻ yêng hùng thất thế phải lo cái đầu không còn trên cổ. Tội ác, mưu mô làm cho chúng muốn sống, muốn vùng vẫy thì chỉ có đường quấn lấy nhau. Song quấn thế nào? Cục diện cuộc chiến thay đổi quá nhanh làm cho các thủ lĩnh nửa đời xông pha trận mạc đến kẻ lần đầu cầm súng hoang mang, lo lắng. Vừa mới hùng hổ gào thét, đi đến đâu cũng người theo như nước lũ, nhoằng một cái đã phải trốn chui trốn lủi trong rừng. Vừa mới huyênh hoang rừng núi, sông suối của mình, dân của mình, bỗng chốc bị vây chặn đến khốn đốn. Bộ đội, công an giăng thiên la địa võng, cả quan lẫn lính mò ra hướng nào cũng bị đánh, các đầu lĩnh bị xé lẻ ra, mỗi người mỗi phương, nghe tiếng súng nổ mới biết đồng bọn còn sống…
*
*     *
Rút quân đến lúc có thể coi là tạm an toàn Sắn điểm lại lực lượng rồi thở phào nhẹ nhõm. Cuộc chơi làm cho hắn thất vọng chứ chưa đến nỗi tuyệt vọng. Chòm sao Tiểu hùng tinh vẫn còn sáu ngôi, Mặt trận Phòng Tô vẫn còn gần hai ngàn chiến binh, đủ cho hắn bày binh bố trận. “Muốn làng dưới tới giúp, làng trên lại đỡ thì cái cổ phải cứng, cái lưng phải vững, cứ mang sức mang lực mang rìu ra chặt cây đi rồi sẽ khắc có gió đẩy.”, cái lý có chân của những kẻ được nuôi dưỡng trong tự lập, tự vượt đã ngáng họng những kẻ trông ngóng vào cái bánh vẽ người Mỹ tiếp tay. “Ta sẽ lập căn cứ kháng chiến, từ căn cứ hắn tỏa ra, nhân rộng lên toàn vùng. Việt Minh đã lập căn cứ đánh Pháp, đánh Nhật thắng lợi, tại sao hắn không làm được!”.  “Ta không tin mấy ngàn con người, tài ba có, ra sống vào chết có mà đến đây lại cụt đường sống. Phải đánh, phải thắng, đánh cho kỳ cùng, đánh cho đến khi đất này, dân này vào tay ta. Trong chiến trận cốt lõi của mạnh yếu là địa hình, quân hình. Địa hình ta thông thạo, quân hình nhất nhất tuân theo thì tại sao ta phải sợ. Nước không cần hình nhất định, binh không cần thế nhất định, ta cứ biến hóa khôn lường thì Việt Minh có mang đến đây cả một quân đoàn cũng như thả muối xuống suối.”… Sắn hùng hồn đem những so sánh lên dây cót đám quân tướng bại trận, tập hợp lực lượng, cùng chòm sao “Tiểu hùng tinh” ra ba kế sách cứu tinh cho Mặt trận Phòng Tô tự trị.
Kế sách thứ nhất là tập trung huấn luyện cho quân lính cách sử dụng các loại súng, cách đánh ngày, đánh đêm, đánh trong rừng, đánh bao vây, phục kích và làm các loại bẫy. Cho do thám đóng giả dân thường đi lấy củi, lấy măng, mộc nhĩ để dò la động thái của đối phương. Cho phép quân lính liên hệ với người nhà để có nguồn tiếp tế lương thực và cung cấp tin tức..., đặc biệt là tổ chức canh phòng cẩn mật. Trong mênh mông, hiểm trở của núi rừng Pu Sam Cáp ai chiếm được rừng, được núi người đó là chủ. Việc trước mắt, việc lâu dài là phải canh phòng cẩn mật, là thiên biến vạn hóa, cố thủ đến cùng rồi từ đó sẽ kháng chiến trường kỳ. Tâm đắc với kế sách này Sắn cho canh phòng, xây dựng các căn cứ như một chiến lũy. Từ cửa rừng dẫn vào căn cứ  những cây  cổ thụ cao vút được đóng đinh làm thang vút lên tận chạng ba, chạng tư. Trên chạng ba chạng tư chúng làm một cái sạp đủ cho hai người ăn nghỉ, cố thủ. Tiếp tế hai ngày một lần. Bốn ngày một lần thay phiên lính. Từ những cái đài quan sát bí mật, an toàn những tên lính giống như những đứa trẻ được thỏa mãn hiếu động, thỏa mãn tò mò, mạo hiểm. Chúng có thể trần truồng, thoải mái ngắm trời, ngắm đất, ngắm cây và thu gọn mọi động tĩnh bên dưới để báo về “chỉ huy sở”. Trong suốt những ngày qua bộ đội vây kín mà cả bọn vẫn “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, bình yên vô sự, công đầu từ những vọng gác tiên tiêu.
 Kế sách thứ hai là trấn an tinh thần binh lính. Mặt trận Phòng Tô vốn là những dòng suối hợp lại. Cuộc chiến bắt đầu, các dòng suối ùn ùn cộng nước vào làm cho dòng sông trở nên cường tráng, hung dữ, đủ sức cuốn đi cả rác rưởi lẫn bờ đập. Cuộc chiến lâm vào bế tắc, các dòng suối cạn nước phô ra sự bất lực, bẩn thỉu. Trong chiến thắng những nanh vuốt ma lanh, xảo quyệt bị ấn xuống tận đáy dòng, vấp thất bại, những cái gai ấy trồi lên khiến cả sông lẫn suối lổn nhổn, ngầu đục. Trong tình cảnh hiện tại, giống như bầy thú đang bị vây hãm, muốn tồn tại, muốn giành giật con mồi không còn cách nào khác là phải làm cho những con “thú người” tạm quên đói khát, tạm quên toan tính, nghĩ suy để tập trung vào con mồi. Sắn đã trấn an thuộc hạ bằng hai cách:
 Cách thứ nhất bắt toàn quân mặc quần áo màu chàm. Điều này dễ. Màu chàm, màu đen đã ám vào người miền rừng từ khi biết lấy vải che da che thịt. Thời buổi nghèo đói, có gì mặc nấy, học đòi, lai căng làm cho màu chàm phai nhạt ít nhiều nhưng chỉ cần kích vào tinh thần dân tộc, chỉ ra cái lợi, cái tiện dụng của màu chàm là từ quân đến tướng răm rắp như vào mâm cỗ tám món. Chòm “Tiểu hùng tinh” tự hào với “sáng kiến vĩ đại” này. Toàn quân, áo chàm, quần chàm, mũ chàm. Rừng núi ngút ngàn xanh, mây mù, lúc bảng lảng như đùa giỡn, làm duyên, lúc ngùn ngụt trùm lên như úp chài, lúc roãng ra như vén tấm màn màu xám. Đội quân màu chàm hòa vào núi vào rừng. Núi rừng hòa vào đội quân màu chàm. Nhắm mắt là nghĩ về màu lá. Mở mắt màu lá vây quanh. Màu lá ôm chặt, che đậy, bảo vệ thân thể. Màu lá cho sự dịu ngọt, ấm áp. Màu lá gợi lên sự bình yên. Màu lá tạo nên hình, nên khối, che giấu, bảo vệ... Cái xanh thẫm của màu chàm làm cho lòng chiến binh thấy mình vẫn đang trong giữa lòng rừng, lòng quê hương, xứ sở. Chiến đấu trong đội quân màu chàm là bảo vệ màu xanh của rừng, bảo vệ yên bình của gia đình, làng bản…
Cách trấn an thứ hai là coi khỉ như Việt Minh, như những kẻ phản bội. Khỉ trong núi rừng Pu Sam Cáp nhiều vô kể. Ban ngày chúng chuyền cành rào rào như gió cuốn. Ban đêm chúng tựa vào nhau ngủ vô tư như trẻ nhỏ. Sự khôn ranh vốn có cùng sự ỉ lại vào số đông làm cho chúng mạnh bạo, coi các loài không là gì. Loài con cháu cụ Tôn, khôn thì khôn thật song hay mắc tật bắt trước, hay tỏ vẻ ta đây. Nắm được điểu yếu này bọn Sắn cho người ra ven rừng, bỏ thuốc mê vào cơm rượu, giả ăn xong bỏ đấy.  Bọn khỉ trúng kế, hàng trăm con từ các mỏm đá, cành cây chăm chú theo dõi từng động tác ăn uống của người. Người bỏ đi là chúng xông ra bắt chước. Cũng chạm bát chạm chén. Cũng bẻ cơm lấp cái dạ dày. Cơm chưa kịp trôi, rượu chưa kịp say mắt chúng đã lờ đờ, chân tay đã mềm nhũn, giấc ngủ kéo đến nhanh hơn cơn gió. Các đồ đệ của sự ma lanh, tàn bạo chỉ việc tới trói lại, vẽ lên thân khỉ tên một anh chị Việt Minh hay một kẻ phản bội nào đó rồi mang về hang tống vào cũi.
Cứ năm ngày các thủ lĩnh lại tập trung binh lính “tổng kết” việc săn bắt và “xử án” Việt Minh một lần. Việc “tổng kết”, “xử án” được làm theo đúng trình tự, thủ tục của một phiên tòa. Đúng giờ, những “bị cáo” được đưa ra. Từng “bị cáo” được nhét vào một cái lồng chật hẹp. Dùi, dao, rượu, muôi sẵn sàng. Rồi thì cáo trạng  dõng dạc vang lên. Rồi thì “luật sư” yếu ớt lên tiếng bào chữa. Rồi thì bị hại tố ác, tố khổ, tiếng hú, tiếng hét, tiếng đã đảo của “công chúng” rít lên man rợ.  Rồi thì “tòa” tuyên án.  Sau cái vẫy tay của “chánh án” là những cái dùi sắt nhằm vào háng, vào nách “bị cáo” xiên chọc như xiên chọc kẻ thù. Những “bị cáo”  sợ hãi, tức tối, cuồng loạn, chúng giãy dụa kịch liệt, điên dại, hai mắt lồi ra, chân tay cào cấu loạn xạ, miệng hú hét, sùi bọt. Những tiếng hú mang đẫm âm khí ghê rợn, đau đớn như những mũi dao xiên vào rừng, vào núi nhưng không lách được vào tim, vào gan những khát máu vây quanh. Cảm thấy các tội phạm đã điên loạn đến đỉnh điểm, “chánh án” gật đầu, lập tức phạt… phạt… phạt… Sau những tiếng ghê rợn từ những nhát dao sắc lẻm phạt ngang qua những chóp đầu “bị cáo” nhô lên khỏi lồng là tiếng rú rùng rợn, là máu chảy luễ loãi, là những tảng óc phòi lên. Những óc khỉ mang tên Việt Minh, mang tên phản bội còn đang giẫy giẫy thì bọn khát rượu, khát thịt gầm gừ, điên đảo xông vào múc ăn ngon lành. Máu, óc, dãi dớt pha lẫn rượu chảy ròng ròng kích động, thúc vào trí não khiến bọn đứng ngoài  ào vào ăn theo như ăn cướp.
Ngày ngày tính hiếu sát chìm sâu trong máu mỗi cá thể được khơi dậy, nảy nở trong cộng đồng hiếu sát. Bọn phỉ tìm đủ mọi cách bắt khỉ. Loài khỉ vãn chúng bẫy người, bẫy thú. Bẫy được giăng, phục khắp rừng. Mỗi con thú mang về được thưởng bộ tim gan, thú cái được thêm bộ dạ con, thú đực  thêm bộ ngẩu pín. Mỗi cặp tai người được thưởng một cái óc khỉ, mười đồng bạc trắng, một ống muối. Người người đua nhau làm bẫy, lùng sục. Bẫy hổ có kiềng. Bẫy hươu, nai có đào hố, bẫy dây. Bẫy bộ đội, du kích có bẫy đá, bẫy đòn, bẫy cần, các loại mìn, chông. Bẫy đá lơ lửng, cập kênh dọc đường đi, chỉ cần hất nhẹ vào cần bẫy là cả chục sọt đá ầm ầm đổ xuống. Bẫy cần tìm nơi ít ngờ nhất thả thòng lọng xuống đón lõng. Bẫy đòn chờ người chạm vào dây là vụt ngang tầm hạ bộ... Có bẫy đơn lẻ, có bẫy liên hoàn. Có kẻ bẫy quanh khu căn cứ, có kẻ trèo đèo lội suối tới tận nơi hoang vu rậm rịt, ít dấu chân người. Kẻ lầm lì bẫy theo kiểu lầm lì, người hiếu động bẫy theo cách hiếu động. Thu hoạch từ bẫy làm cho các khu rừng đóng quân lúc nào cũng bốc khói, cũng sì sụp ăn uống, tâng bốc nhau, tôn nhau lên làm đại ca, anh hùng. Thu hoạch từ bẫy, từ phục kích đã làm cho thần chết rình rập khắp rừng, khắp núi, kẻ chết bất đắc kỳ tử ngày càng nhiều. Những cái chết ghê gớm gieo sự sợ hãi, khiếp đảm khắp vùng bao nhiêu thì Mặt trận Phòng Tô. lại hân hoan sôi réo bấy nhiêu. Trong không khí nơm nớp, sợ hãi, buồn tẻ, hoang vắng thì hiếu sát, rùng rợn cũng tạo nên cảm giác bình yên.
Kế sách thứ ba là tỏ rõ sức mạnh.
Điểm yếu nhất của kẻ chiến thắng là chủ quan khinh địch, tổ chức một đội cảm tử đánh thẳng vào đội hình của chúng là chúng khắc nao núng, tan rã. Kế sách này trước mắt không thành. Sau trận bị bất ngờ đồng khởi bộ đội, chính quyền căng ngày căng đêm cảnh giác, quân tướng của “Tiểu hùng tinh” thò ra chỗ nào là bị chặn lại chỗ ấy nên đành phải co cụm chờ thời.
21
Đã nửa tháng nay, ngày nào cũng như ngày nào, mỗi buổi sáng đám quân tướng của Hoàng Seo Lùng cho vào bụng bát cháo loãng xong là kéo nhau ra cái bãi trước cửa hang luyện tập. Để tránh đụng độ truyền kiếp của các tộc người, Lùng chia quân cán của mình ra thành các đội độc lập. Người Dao, người Hmông có hai trăm người, chia làm tám đội, mỗi đội hai nhăm người, còn lại người Thái đen, Thái trắng, Phú Nả, Kinh, Phù Lá, tổng cộng hai mươi chín người dồn vào một đội. Chỉ khi phối hợp canh gác, tuần tra, phục kích, chiến đấu người của các đội mới tập trung, còn ăn uống, ngủ, nghỉ, luyện tập riêng rẽ. Buổi sáng các đội tập trung điểm danh, rồi đội nào về vị trí luyện tập của đội ấy. Bãi tập, bài tập cũng phù hợp với cách đánh, thông thạo của từng tộc người. Người Hmông dũng mãnh, giỏi võ, thông thạo núi cao - lấy mỏm núi đá tai mèo làm bãi tập. Người Dao giỏi mưu mẹo, coi rừng là nhà - lấy rừng làm nơi quần thảo. Người Thái, người Phú Nả, Kinh, Phù Lá giỏi sông nước, giỏi đánh tập kích, phục kích - cắt từng con suối, mỏm đồi, con đường ra để mật phục, đặt bẫy... Các đội tự giác luyện tập, những món võ cổ truyền như võ gậy, võ côn, võ kiếm, những cách chế tạo vũ khí bí truyền như rèn súng, rèn gươm, làm thuốc súng..., những kinh nghiệm lừa người, lừa thú như bẫy chông, bẫy đòn, bẫy đá... được khuyến khích, được luyện tập một cách hào hứng. Hoàng Seo Lùng và đội quân của hắn là điểm tựa, là tấm gương cho cả Mặt trận Phòng Tô trông vào.
Triệu Tá Sắn đi gặp Hoàng Seo Lùng. Lũn cũn sau Sắn là Vàng Seo Hùng. Cái thằng đẻ ra để làm vệ sỹ này chẳng cần biết đến ai ngoài chủ, nhất là lúc cái chết rình rập khắp rừng, khắp núi. Ẩn náu trong khuôn mặt lạnh lùng, vô cảm, trong cái dáng lừ lừ như dáng gấu là mọi thính nhậy căng ra, toàn thân là sợi dây cung có thể bật tên bất cứ lúc nào. Suốt dọc con đường, Sắn đi trước, Hùng đi cách hắn ba bước. Thỉnh thoảng Sắn lại liếc sang Hùng vẻ hài lòng. Đôi chân chồn của Hùng nhẹ lướt, đôi mắt cáo sục sạo bên trái, bên phải, đằng trước, đằng sau, bàn tay phải luôn chạm hờ lên báng khẩu súng lục cài ngang bụng... Cách đây ba hôm, Sắn có Hùng hộ vệ đi Tả Gia về. Cả hai vừa đến con suối cạn thì phía trước có tiếng loạt xoạt, Sắn chưa kịp phản ứng thì thì khẩu súng trong tay Hùng đã nổ hai phát. Sắn và Hùng thụp xuống nghe ngóng, thở phào, hóa ra một con chồn đi ăn lẻ không may bị tính cảnh giác cao độ cùng tài nghệ của Hùng bắt chết.
 Không khí vào xuân làm dịu đi những bức bối, lo ngại cả bên này lẫn bên kia. Những làn mưa xuân mỏng mảnh trùm, ướp lên khắp rừng, khắp núi, gợi lên không khí náo nức xen lẫn day dứt, phấp phỏng. Những cành cây khẳng khiu đang náo nức bật mầm. Lạch nước von lại nhưng cũng đủ róc rách chảy xuôi xuống chân núi. Trên những vũng nước, những con nòng nòng nọc bình thản, tung tăng. Trên cành cây, những con quạ kiên nhẫn đậu kín ngọn cây chờ xác chết...
Hai người đã đến hang của Hoàng Seo Lùng. Giữa bãi rộng trước cửa hang ba đội lính Hmông của Lùng đang luyện tập. Những tấm bia hình người, hình thú đang hút hồn những họng súng, dây cung.
Sắn chào đám lính rồi chui vào hang. Trong hang, trên cái sạp  kê chắc chắn Lùng và San đang nhồm nhoàm gặm thịt.  Mỗi thằng nửa con gà béo luộc, vừa gặm vừa tợp rượu. Mỡ gà vàng óng nhoe nhoét quanh miệng, đầy tay, chảy ròng ròng xuống bộ ngực đầy lông lá.  Kẻ đói khát thường lấy ăn uống làm đầu, bệnh này đã ngấm vào máu rồi nên kể cả lúc ba ngày không có gì nhét bụng đến thừa mứa thả thịt thả rượu xuống sông, chúng cứ gặp nhau là ăn uống. Trong lúc đói khát ăn uống càng được đặt lên đầu, hai đứa không gầm ghè, không chuyện trò, không chạm bát, cả hai tự ngập mình trong khoái khẩu. Đứng coi cho hai thủ lĩnh ăn uống là mấy tên hầu cận, mỗi thằng ghìm nén thèm thuồng, đói khát theo cách mình. Một thằng tự sướng bằng cách quấn lá cờ đỏ sao vàng cướp được quanh người. Hắn cứ quấn vào rồi lại mở ra như đo, như thử, cuối cùng hắn cho vào mồm chậm rãi nhai từng góc, từng góc, có lẽ hắn cho Việt Minh dùng cờ nuôi được mồm nhiều người thì cũng nuôi được mồm hắn. Góc khác một thằng đang ngồi ôm lấy bếp lửa. Sức nóng từ bếp lửa hâm nóng da thịt, mạch máu làm cho da hắn căng lên, bề mặt da bị cáu bẩn, ghét kết lại thành mảng rạn ra, bắt ngứa buộc hắn phải ra sức gãi, càng gãi càng sướng, càng thấy mình được giải thoát...
Thấy Sắn và Hùng đến Lùng, San vẫn không nói không rằng. Lùng bê  bát rượu trong vắt lên ngửi ngửi một cách thích thú. Rượu trong bát ánh khuôn mặt lì lợm, ngang tàng, bất cần.
Sắn ngồi xuống cạnh Lùng, đưa tay với cái túi da dê rót đầy rượu vào một cái bát tàu, bê lên uống cạn rồi khà lên một cách sảng khoái. Cả bọn mắt tròn mắt dẹt. Rượu ngô của Lùng là loại đặc biệt. Thứ để nấu ra loại rượu này vẫn là ngô, men, nước, củi, song phải được lấy, được nấu ngay tại Bản Phố, vùng đất thuộc miền Đông Bắc Lào Cai, nơi toàn núi đá cao ngút trời, nguồn nước hiếm, khí hậu khắc nghiệt, lượng mưa và ánh nắng mặt trời thuận lợi chủ yếu vào mùa hạ. Điều kiện tự nhiên đã gây khó khăn rất nhiều cho việc trồng lúa, song bù lại, khí hậu, đất đá nơi đây lại phù hợp với cây ngô. Ngô dùng để nấu rượu của đồng bào là loại ngô vàng thuần chủng, được gieo trồng trên những mảnh nương cheo leo trên núi đá, rễ bâm vào hốc đá, thân, lá uống sương đá lớn lên. Ngô vàng có thời gian sinh trưởng dài tới sáu tháng, thích nghi với điều kiện khí hậu khắc nghiệt, phù hợp với chất đất, bắp ngô có vỏ bi kín, hạt mềm, bùi, chất dinh dưỡng cao. Khi nấu rượu những người Hmông Bản Phố lấy những bắp ngô đã được bảo quản trên gác tẽ lấy hạt, sau đó vo sạch, cho vào chảo bung khoảng nửa ngày. Khi ngô nở bung hết người nấu rượu đổ ra nền đất cứng san đều. Đợi cho ngô bớt nóng họ rắc men được làm từ hạt cây Hồng My trộn đều, phủ kín lá chuối. Ba đến năm ngày sau, khi mùi thơm sực lên thì cho vào chum bằng ghép bằng gỗ xoan đào, trát gio kín, sau chín ngày thì đem cất. Loại rượu này nấu ra trong vắt, có mùi thơm riêng biệt, nặng, có tính vị quy kinh cay, ngấm vào kinh phế  tùy vị, tâm bào…, có tác dụng hành huyết, kích thích thần kinh, tiêu hóa, thông kinh hoạt lạc, uống bốc, say nhanh, nhưng sau khi say không đau đầu, đau bụng. Uống cả bát tàu rượu Bản Phố thế này thì chỉ những anh hùng hảo hán trong Thủy hử mới làm nổi. Vậy là Tổng tư lệnh vẫn giữ được phong độ của những ngày vận nổi. Vậy là các cột kèo, đòn tay, mái lá vẫn có cây cột cái để dựa.
Thấy Sắn tỏ ra anh hùng hảo hán, Lùng cũng uống cạn bát rượu. Uống xong hắn đặt cái bát xuống tảng đá, hỏi cụt lủn:
- Bên Sán Chải thành con thú cùng đường rồi phải không?
Sắn không trả lời Lùng, hắn cầm khúc củi, từ từ tưới rượu vào rồi châm lửa, lửa bén rượu bốc lên ngọn lửa xanh lét, mùi thơm tỏa ra ngào ngạt. Sắn ném khúc củi vào giữa đống lửa, thủng thẳng:
- Đám cháy của bọn Kinh chẳng khác gì đám cháy đốt bằng rượu đâu. Rượu đâu mà đốt ngày đốt đêm, lửa rượu có bốc cao quá ngọn cây cũng là lửa cháy bên ngoài, sợ gì.
Lùng ngồi lặng, không nói được gì thêm.
Sắn nói tiếp:
- Gắng gượng nuôi sức lực, gắng nhịn trước tai ương thì việc lớn tất thành, cũng như ông San đây, mấy năm nay ông ấy nhẫn nhịn nuôi sức, nuôi lực giờ ta mới có cái để mà nuôi mồm.
Mặt Lùng đanh lại, còn San hỉ hả ra mặt.
Sắn chuyển hướng:
- Ta đi vào việc chính nhé. Tôi xin bày cả cái khó, cái dễ lên trước mặt các vị. Bây giờ với chúng ta tất cả đều bất lợi. Sau vài trận đối phương đã chiếm được hầu hết các bản làng, đẩy chúng ta vào rừng. Giờ dân, đất trong tay chúng, quân chúng đông, lực chúng mạnh. Còn ta thì sao? Cái này không nói thì các vị cũng rõ như ban ngày. Các thủ lĩnh tản mát, mỗi người mỗi rừng, cả quân lẫn tướng tình thần rệu rạo như nhà cột bằng cây chuối gặp bão...
Hoàng Seo Lùng uống cạn bát rượu, vật bát xuống nền đá, cái bát vỡ tan, hắn gầm lên:
- Nhổ một cây thì được chứ nhổ thế nào được cả cánh rừng. 
Sắn nhẹ nhàng, từ tốn:
- Chúng không nhổ, nhưng chúng đuổi, chúng bứng chúng ta khỏi nhà như bứng cây khỏi đất.
Từ lúc Sắn vào, San lặng lẽ uống rượu, lặng lẽ nghe ngóng, thấy đã đến lúc lên tiếng, San để cái đùi gà xuống bát, tợp một ngụm rượu rồi thủng thẳng:
- Thì cứ cho chúng bứng đi, bao nhiêu lần chúng bứng ta, ta bứng chúng  mà đã rõ hổ thắng hay trâu đực thắng đâu.
Câu nói của San gãi đúng chỗ ngứa, Sắn hào hứng:
- Ông San nói đúng quá, hổ thắng hay trâu đực thắng còn phải chờ, nhưng mình phải rõ mình rõ người, mình phải có kế sách của mình...
Lùng sốt ruột cắt ngang lời Sắn:
- Nói nhiều quá, làm thế nào, đánh ra sao tổng chỉ huy cho biết đi.
Sắn giơ cả hai bàn tay ra xua xua:
- Cứ từ từ, cứ ăn cứ uống thoải mái đã, nào mời các ông!
Sắn nâng bát rượu lên tợp một ngụm rồi cầm cái đùi gà lên xé, nhai ngấu nghiến, ba thằng hào hứng làm theo.
Sắn ném cái đùi gà còn trơ xương vào vách đá, tợp một ngụm rượu rồi thủng thẳng:
- Cách đánh lợi hại nhất của ta lúc này là bóp dái đối phương…
San nhả miếng thịt gà béo ngậy trong mồm ra, tròn mắt ngạc nhiên:
- Bóp dái đối phương?
- Đúng, bóp dái. Bọn chúng bảo là chiến tranh du kích, nhưng du kích cái quái gì, chạy trốn lòng vòng, nhằm nhằm đối phương sơ hở là nhảy vào cắn phá, rồi lại chạy, lại chui rúc, có cơ hội lại thò ra, như thế không phải là bóp dái là gì.
Lùng cười rung cả râu tóc, cười hết trận, hắn vừa nói vừa làm bộ:
- Đúng, bóp dái. Hay, hay, cứ núp trong rừng, trong dân, thỉnh thoảng lại thò tay ra nắm vào bộ cà của chúng, rút dao ra, a lê hấp, thế là được một món nhắm rượu.
Hùng băn khoăn:
- Nhưng….
- Nhưng gì? Chúng không sợ ta nhưng ngại ta. Ngại chúng mới co cụm lại, mới bám sát dân. Cứ kệ cho chúng co cụm, cho chúng bám, trăm chỗ kín phải có môt chỗ hở, ta cứ nhằm vào chỗ hở ấy mà bóp, mà tiêu hao, quấy rối.
San vỗ tay ầm ĩ:
- Đúng, đúng, đánh kiểu ấy thì đầu chúng có bằng sắt cũng thành bùn. Hay hay, phen này ta sẽ chúng biết thế nào là người Phòng Tô.
Sắn nâng bát rượu lên:
- Đúng, phải cho chúng thành bùn, nhưng trước khi chúng thành bùn mình phải thành thép đã. Mời các ông, ta uống xong rồi bát này rồi đi điểm lại lực lượng. Cả bốn cùng nâng bát, những giọt rượu trong vắt chảy vào cuống họng chúng như lửa chảy.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét