Thứ Ba, 28 tháng 2, 2012

Thổ phỉ -Tiểu thuyết -Tác giả Đoàn Hữu Nam- NXB Hội Nhà văn 2010

chương 3 + 4 + 5

3
Lễ cấp sắc đang kỳ cao trào.
Triệu Phú Vương run run cầm bức tranh, từ từ giơ lên cao rồi hồi hộp thả xuống.
Mọi người lặng đi.
Một nghìn năm trước thần Hòi Phan mải mê tiêu dao cùng mây gió.
Một trăm năm qua thần Hòi Phan quay mặt với khổ ải của người Dao.
Trời đã đến lúc rạng, lửa đã đến lúc cháy, thần Hòi Phan đã nhập vào Triệu Phú Vương. Sau bao năm khát khao Triệu Phú Vương là người Dao Sín Chải đầu tiên có niềm vinh quang được chân mệnh vua cha chiếu sáng.
Từ điềm báo đến hiện thực còn xa vời, song một con gà gáy cả bản bừng thức, trăm người như một, ai cũng rưng rưng mừng cho họ Triệu, mừng cho chính mình.
Vua ra…
Tiếng thầm thào cố nén của cả trăm con người cùng cất lên như tiếng nguyện cầu buổi sớm.
Vua ra…
Cái khát vọng đứng đầu thiên hạ của một trăm đời trước dồn tụ, cái hy vọng dẫn dắt thiên hạ của một trăm đời sau loe lóe từ phía hừng Đông.
Vua ra
Trong buồng Triệu Tá Sắn nâng bát rượu lên từ từ uống cạn. Cặp mắt lươn của hắn lóe lên, đám dân đen cuồng tín bên ngoài mê muội bao nhiêu thì lòng dạ hắn hân hoan sôi réo bấy nhiêu.
Vua ra... vua ra... ha ha ha...
Trong mập mờ sáng tối, sống còn, con người thường bấu víu vào cái gì đó để hy vọng, để cộng thêm nghị lực mà sống, mà tồn tại. Cái bấu víu dễ nhất, mông lung, không bờ bến nhất là niềm tin, là tâm linh. Càng khổ ải, càng mất phương hướng con người càng nuôi dưỡng, tôn thờ niềm tin. Cứ bám vào cái dễ làm cho con người mê muội nhất là tất dẫn dắt được con người.
Vua ra... ha ha ha...
Sự sinh ra và mất đi của mọi sự vật, hiện tượng đều do trời đất định đoạt. Cuộc sống hiện hữu của mỗi con người là do ông trời sắp đặt để thử thách. Con người ở trần gian, ai là người biết tu luyện tâm đức, làm việc thiện thì khi chết đi sẽ được về với vương quốc thiên đường, về với cái đích của con người...”. Ha ha ha… lời thày Sùng peng, lời thầy Khòi cháo nối nhau. Toàn những lời có cánh dẫn dụ con người vào chốn mông lung, bắt con người chui vào vòng khổ ải. Từ bấu víu tâm linh, từ khát vọng vua ra mà năm 1950 Phòng Tô này, Tây Bắc này trong cơn lũ ống. Lũ qua, cái gì trôi thì trôi, cái gì còn lại lại bật dậy, ngẩng lên, vươn cao mầm sống. Từ tâm linh, từ khát vọng vua ra ma từ năm 1950 đến năm 1955 Tây Bắc bốn lần nổi phỉ, bốn lần bị dẹp, nhưng dẹp gì, đánh gì thì mầm mống, khát vọng vẫn là hòn than ủ trong lòng người, lòng rừng. Nắm được cốt lõi này ta sẽ có tất cả, thả cốt lõi này ta sẽ không chốn nương thân.
Sắn lại nâng bát rượu lên uống cạn, niềm hân hoan chảy rần rật trong dòng máu của kẻ tự coi mình có chân mệnh đế vương.
*
*       *
 Sắn đã một lần được mang chân mệnh đế vương trùm lên thiên hạ. Đó là vào mấy năm đầu của những năm năm mươi. Phòng Tô là miệng của trời, là mường trời thét, song trước đây chỉ có sấm sét từ trời,  từ thổ ty họ Đèo, thủ lĩnh họ Giàng nối nhau chứ làm gì đến lượt những người Dao thấp cổ bé họng. Việt Minh tràn qua, mấy đại đội lính khố đỏ, khố xanh trấn giữ ở các nơi hiểm yếu phải đội lốt vịt lạch bạch chạy về phía Lai Châu, Điện Biên. Các thổ ty - những kẻ cùng nhau uống máu ăn thề, hứa cùng nhau quyết tử với Việt Minh trông trước trông sau rồi mạnh thằng nào thằng ấy chạy.
Từ ngày bị Việt Minh đánh bật ra khỏi Sán Chải, phải chui vào rừng sâu nương náu Sắn luôn sống trong tiếc nuối, nhục nhã. Trong hơn ba mươi năm nhận biết được ở cõi đời chưa bao giờ hắn biết đến gục ngã. Vậy mà lần này…, hắn đau. Đau lắm. Đau như bị cắt mất bộ truyền giống. Thất bại trước những kẻ trên không chằng dưới không rễ đã là nỗi đau quá lớn, nhưng chưa thấm vào đâu với cảnh như con chó bị đuổi khỏi nhà. Cùng bị bứng theo hắn có hơn ba trăm đàn ông, trai tráng người Dao sinh sống quanh thung lũng Sán Chải mà thường ngày hắn vẫn gọi là chiến binh. Trong số hơn ba trăm chiến binh ấy chỉ có hơn hai mươi người thực sự làm con chó chuyên nghiệp giữ cửa. Số còn lại là những dân binh nửa vời. Người thì dây mơ rễ má trong dòng tộc. Người bị sợi dây luật tục buộc chặt. Người bị ruộng đất, nợ nần trói từ đời này sang đời khác. Thường năm, ngoài việc mùa vụ, có công việc của bản, của châu phải đến làm tập trung, còn bình thường, ban ngày họ được cầy thuê cấy rẽ, ban đêm thay nhau vác súng, vác kiếm đến nhà họ Triệu gác sách, tuần tra, hoặc ban ngày tuần tra, canh giữ, ban đêm về nhà uống rượu, ôm vợ. Họ là những kẻ đầy tớ trung thành, bảo canh giữ thì canh giữ, bảo đi theo thì đi theo. Cái đích của họ là được làm thuê, làm mướn, là được ăn cơm, mặc áo nhà họ Triệu. Làm cho nhà họ Triệu giầu có là được nương nhờ, dứt khỏi nhà họ Triệu là dứt khỏi con đường sống. Đời ông họ thế, đời cha họ thế, bây giờ họ là sợi dây nối tiếp mà thôi. Bộ đội Việt Minh tràn vào, theo tù và hiệu lệnh của Sắn, họ vội bỏ dở bữa cơm, bỏ dở đường cày vác súng đến đón đánh Việt Minh bảo vệ bản làng, thực chất là bảo vệ nhà họ Triệu. Bộ đội Việt Minh như lốc như bão khiến cả vùng chưa đánh đã vỡ, họ phải chạy theo họ Triệu vào rừng.
Những kẻ theo Sắn càng đơn giản bao nhiêu thì Sắn càng đau đớn bấy nhiêu. Dẫu đau, dẫu bực, dẫu xót Sắn vẫn tỏ ra mình là một thủ lĩnh cứng rắn. Không cứng rắn không được, mấy trăm con người bại trận vây quanh Sắn tỏ rõ sự ô hợp cả bên trong lẫn bên ngoài. Bình thường là một đám nông phu, lúc tập hợp giống như một nồi thắng cố, thua trận lại càng thảm bại hơn. Trước đây tiền bạc, quyền lực nhà họ Triệu thít chặt sợi dây vào cổ họ, tưởng như họ Triệu bảo sống là sống, bảo chết là chết, ai ngờ lúc lâm trận chúng mới phô ra sự hốt hoảng, bạc nhược. Cả đội quân toàn những kẻ nghe tiếng súng mắt đã dáo dác như gà con mất mẹ gặp diều hâu, vào rừng rồi mà hồn lúc nào cũng đau đáu phía gà gáy, bụng dạ lúc nào cũng như kiến cắn. Vậy mà vẫn phải nuôi nấng, vẫn phải phỉnh nịnh không nuôi, không phỉnh nịnh thì lấy gì mà chiến đấu, mà lấy lại cơ nghiệp, lấy lại uy thế.
Giữa lúc Sắn đang điên lên thì quan Ba Đờ ri nhô thân chinh đến tận hang ổ của Sắn tính kế lâu dài.
Quan Ba Đờ ri nhô là người Sắn mang ơn suốt đời. Là người coi việc cháy trước mặt, lửa cháy sau lưng là ghẻ lở, hòn than ủ trong bếp mới là gan ruột, quan Ba đã lấy việc người địa phương trị người địa phương làm trọng, coi việc huấn luyện, nuôi dưỡng người địa phương làm kế sách lâu dài. Có chính sách của quan các thổ ty họ Đèo, họ Giàng, họ Lù mới có cái thế để cát cứ, hoành hành. Có nuôi dưỡng, dạy bảo của quan dọc biên giới Tây Bắc mới có lớp chiến binh áo đen, áo chàm khét tiếng. Khi Sắn xung lính, có sự dẫn dắt, nuôi dưỡng của quan, Sắn mới leo lên được chức Đội, mới có thực lực lập nên đội quân người Dao ở Sán Chải. Tháng tư năm Ất Dậu, quân Nhật theo đường Sa Pa tiến đánh Phòng Tô, quân Pháp kháng cự không nổi phải bỏ đất chạy lấy người. Trước khi vượt cửa khẩu để chạy sang bên kia biên giới lánh nạn quan Ba đã kịp giao cho Sắn nhiệm vụ ở lại xây dựng lực lượng. Lúc đó bao nhiêu giá trị lộn nhào, mạnh ai nấy xưng hùng xưng bá, song dẫu hùng, dẫu bá, dẫu đội lốt mèo, lốt hổ, kẻ nào cũng phải nghe theo sự chỉ bảo ngầm của quan thầy, nhất là khi âm mưu tái chiếm Tây Bắc của người Pháp đang sôi sục. Trong cây gậy từ mẫu quốc những người Pháp bại trận ở Côn Minh đã lập ra Phái đoàn Năm nhằm cài cắm, xây dựng lực lượng tình báo, biệt kích tinh nhuệ chống phá Việt Minh. Ở Phòng Tô, người mà Đờ ri nhô nhớ tới đầu tiên là Sắn. Từ súng ống, đạn dược, từ chỉ đạo chiến thuật, chiến lược của quan thầy, Sắn đã đứng lên đánh tan bọn Quốc dân Đảng. Từ khích lệ tinh thần của quan thầy, Sắn đã đưa đội quân của mình ngẩng cao đầu sánh ngang với những thổ ty người Thái, người Hmông, người Pú Nả, những kẻ bao đời làm mưa làm gió ở đất này.
Lần ấy, theo lệnh của quan Ba Đờ ri nhô, Sắn cùng đám thuộc hạ thân tín đi Mường Xo để cùng tri châu họ Đèo, thủ lĩnh họ Giàng, họ Lù thành lập liên minh chống Việt Minh. Thực ra lúc đó các chúa đất mỗi người hùng cứ  mỗi phương, có kẻ nào chịu kẻ nào mà liên minh, đứt minh, có chăng chỉ là dịp để các thủ lĩnh thăm dò lực lượng của nhau, thực lực của người Pháp ra sao, lo được gì cho mình.
Đúng như Sắn dự đoán, cuộc họp của liên minh lộn nhộn chẳng khác gì một nồi thắng cố. Khác chăng nồi thắng cố ấy đáng lẽ được đặt giữa chợ thì nó lại được đặt trong cái hang tối tăm giáp biên giới Việt Trung. Khác nữa thầy cúng Đờ ri nhô không điều khiển các âm binh mà để cho các âm binh tự điều khiển lẫn nhau.
Cuộc họp đi quá nửa ngày mà vẫn lùng nhùng, mọi nghi thức xã giao, mọi lối mở bị chôn cứng trong những cái đầu u mê, tham vọng, chỉ đến khi quan Ba tuyên bố các thủ lĩnh vùng nào sẽ chỉ huy kháng chiến vùng ấy. Căn cứ vào quân số và khả năng tác chiến của từng vùng máy bay Pháp sẽ thả dù súng ống, đạn dược, lương thực, thực phẩm cho các thủ lĩnh thoải mái chi dùng trong năm năm, mười năm, lúc đó các thủ lĩnh mới hồ hởi như những kẻ đói khát được chia phần.
Trong cảnh mập mờ sáng tối những kẻ ma lanh có ưu thế của con rắn trong đêm. Chuyến đi đó Sắn bắt được vàng mười. Còn hơn cả vàng mười. Lấy lại được Sán Chải là thông lại được huyết mạch, là chặn đứng một hướng Tây tiến của Việt Minh, là nòng cốt để lan tỏa ra cả vùng, là… là… Những lời có cánh từ miệng quan Ba thổi vào tai Sắn. Cùng với những lời có cánh ấy, Sắn được hứa cấp súng đạn, lương thực, thực phẩm, bạc trắng gấp đôi vùng khác, nhận thêm hai trăm tàn quân Tưởng Giới Thạch chạy sang nương trú, có quân Pháp, quân các thủ lĩnh khác hỗ trợ để đủ sức đương đầu với bọn Kinh thật, Kinh giả…. Đặc biệt là Sắn được phép chuẩn bị mọi điều kiện để xưng vua.
Sắn ngỡ ngàng, hắn không tin vào tai mình. Làm vua thì phải có uy, có tín, có tôi hiền, tướng giỏi, hoặc chí ít phải có đám dân đen mê muội đến quên thân. Còn hắn, đức là cái mo nang trôi sấp trên suối; uy mới đủ khuất phục những kẻ lệ thuộc; quân là một đám nhộn nhạo, ô hợp; tiền bạc, kho lẫm vào cả trong tay kẻ thù thì làm sao đã đủ sức xưng vương, xưng vua.
Triệu Tá Sắn - Đội Sắn được quan Ba tiếp rượu thông đêm. Qua quan Ba, Sắn vỡ ra bao nhiêu điều mà chính hắn đã từng làm, từng nghĩ.
Sán Chải - Mảnh đất hiểm yếu, núi giữ chân người, người giữ chân núi.
Sán Chải - Trước đây các tộc người sinh sống nơi đây  vốn cùng một gốc. Cũng chọc lỗ bỏ hạt. Cũng xe lanh dệt vải. Cũng lấy rừng làm nhà. Cưới cheo cô dâu theo hướng Đông vào nhà. Ma chay linh hồn theo thầy dẫn dắt về phương Đông tụ hội. Trước đây vì không hiểu nhau nên tay phải chém vào tay trái, máu đổ, đầu rơi. Bây giờ Việt Minh tràn đến. Thôn tính đất đai, vơ vét tài sản, làm cho bần hàn, cơ cực rồi đồng hóa là mục tiêu của bọn thống trị. Rồi đây con cháu người Dao sẽ chẳng còn biết đến Bàn Hồ, chẳng còn biết đến tổ tiên. Muốn Sán Chải này, Phòng Tô này, Tây Bắc này không thành rừng cây bị vặt trụi lá thì các bộ tộc phải quấn lấy nhau, phải tạo nên sức mạnh quét sạch bọn Việt Minh.
Xưng vua trong lúc cùng đường là việc làm điên rồ. Dù ta – Triệu Tá Sắn có chân mạng dẫn dắt thiên hạ đi chăng nữa thì lâu nay ta vẫn chỉ là kẻ a dua, là con dao trong tay kẻ khác, vòng hào quang trên đầu ta vẫn là mượn, là giả. Giữ chặt bọn nửa lính tráng nửa đầy tớ trong tay là chuyện đương nhiên, song nuôi chúng, gây dựng chúng thành công cụ lúc này là phải cho chúng lòng tin. Chúng không trực tiếp làm rối loạn lòng quân, không lôi kéo bè cánh, song ta đang ở tình cảnh chúng tin thì theo, không tin thì bỏ. Chúng mà bỏ thì sự nghiệp của ta sẽ là mô đất giữa lòng suối, lở được một sẽ lở mười và cuối cùng tất cả sẽ rữa ra rồi trôi theo dòng nước. Trong vòng xoáy của thời cuộc ta có muốn đứng ngoài, có cố tránh nó thì nó vẫn xoáy vào, hoặc phải dạt vào bờ bên này, hoặc phải dạt vào bờ bên kia. Nhưng dạt vào bến bờ nào? Theo Việt Minh ư? Bánh vẽ làm cho cái tai, con mắt no đủ nhưng cái bụng sẽ như cần cối đói nước. Làm người nước Pháp ư? Bao nhiêu năm đàn áp, mua chuộc, dụ dỗ, gây dựng trật tự sắt, vậy mà chỉ một cơn gió tràn qua người Pháp đã bị lật gốc trốc ngọn. Không! Một ngàn lần không! Tiền nhân đã dạy, Hà Bá mong mùa nước lũ để lấp cái dạ dày; hổ báo mong rừng động để khỏi phải khổ sở rình mồi, còn ta.... Biến hóa ư! Ta còn nguyên cái khéo léo của tổ tiên. Sức mạnh ư! Uy vũ của ta có cái thế của kẻ làm chủ núi rừng. Xưng vua là danh chính ngôn thuận, là tăng thêm sức mạnh, là dẫn dắt bọn dân đen chui sâu vào con đường mê muội, là nghiệp lớn sẽ thành. Quan Ba Đờ ri nhô muôn năm! Vua Dao Triệu Tá Sắn muôn năm!
*
*    *
Sau khi nhận lệnh của quan Ba, Triệu Tá Sắn ngồi thông đêm với thây mo Quấy – Người có thể giao tiếp được với thần linh.
Sắn dính với thầy mo Quấy định mệnh.
Lần ấy Sắn đi Tà Thàng tìm gặp quan Ba.
Giữa mùa nắng nóng,  tiếng sấm ì ầm doạ nạt chán chê ông giời không rặn nổi một giọt nước xuống trần gian. Ban ngày mặt trời nung cho những tảng đá nóng rẫy, phồng lên, bạc phếch. Ban đêm sương lạnh làm cho đá ướt át, co lại. Sự nóng lạnh bất thường khiến những rãnh đá nứt rộng dần  rồi tụt hẫng, lở ầm ầm xuống chân núi.
Sắn cùng đám hộ vệ đang thả ngựa nước kiệu trên con đường vắt ngang sườn núi thì gặp một người đàn ông râu dài, mắt sáng, vóc dáng khác người từ trong rừng đi ra. Nhìn thấy Sắn cùng đám hộ vệ hùng hổ cưỡi ngựa đi về hướng Tây, người đàn ông ngẩng mặt lên trời cười lớn rồi nói một câu cụt lủn: “Đi đằng Đông thì sống, đi đằng Tây thì chết.”.
Nhìn kẻ  mới cỡ tuổi mình đang ra cái vẻ tiên tri, Sắn bật cười, vung roi vút xuống. Kẻ ăn đòn không giật mình, không chống đỡ, hắn đứng lặng, mắt nhắm tịt, ngón tay trỏ của bàn tay phải đặt dọc sống mũi lẩm bẩm câu gì đó, có lẽ là thần chú. Sắn lẩm bẩm: “Đúng là thằng điên”, rồi ra roi cho ngựa vọt lên, đám hộ vệ của hắn vọt theo.
Sắn cùng đám hộ vệ qua ngã rẽ được một đoạn, thì gặp quan Ba  cùng đám tùy tùng đang trên đường đến thăm mình. Chủ tớ gặp nhau tay bắt mặt mừng, Sắn hớn hở cùng quan thầy quay về Sán Chải. Cả bọn vừa đi được một đoạn thì một góc đỉnh núi phía Tây toác ra, đất đá ầm ầm đổ xuống. Cả bọn hú hồn, bầy ngựa sợ hãi hết tung vó trước lại hất cẳng sau, đám quan, lính, tây, ta hồn xiêu phách lạc.
Qua cơn nguy kịch Sắn nhớ tới kẻ lạc loài gặp ở dọc đường mà giật mình, thán phục. Gã cho người dò hỏi thì được biết người đàn ông đó tên là Quấy. Bàn A Quấy. Quấy mồ côi cha, hiện đang nuôi bà mẹ mù lòa. Quấy thông minh, có tài đoán định như thần. Những lời đoán sấm đoán chớp của Quấy thường ban đầu không ai tin, khi việc sảy ra như giời định mới bừng tỉnh, mới thấy sợ, thấy phục. Một lần giữa mùa hanh hao, Quấy bảo sắp tới sẽ có mưa đá lũ quét. Mọi người mặc kệ lời hắn bay lên giời. Hắn không nói không rằng, lập đàn cúng tế ngay tại ruộng trước cửa. Đàn cúng, cách cúng của hắn khác người, chẳng ra Dao, chẳng ra Tày, chẳng ra Nùng.... Giữa một vùng trời đất ảm đạm, lam sơn chướng khí ngùn ngụt, màu đen tuyền của giàn cúng, đồ cúng, quần áo người cúng khiến người ta coi hắn là phù thủy hơn là một thầy cúng. Mà hắn phù thủy thật. Hắn cúng hai ngày hai đêm, đến ngày thứ ba thì trời đất vần vũ, một trận mưa đá ầm ầm trút xuống. Sau mưa đá là lũ cuốn. Các loài vật biết chạy, biết bò, biết bay, biết bơi cuống cuồng vọt ra khỏi chỗ ẩn ấp. Riêng hắn không. Mặc mưa, mặc gió, mặc lũ đá, lũ bùn, hắn vẫn điềm nhiên ngồi cúng. Không biết vì lòng thành hay hắn điều khiển được cả giời đất, ma quỷ mà dòng lũ đang hung tợn như con hổ bị lửa đốt đít phóng đến gần đám ruộng nhà hắn bỗng rẽ ngang sang hướng khác. Cả vùng qua cơn lũ, ruộng ven suối thành dòng sông đá,  cây cối, đất đá ngổn ngang, vùi lấp, riêng ngôi nhà và đám ruộng của hắn vẫn nguyên vẹn như được phù phép.
Sau trận mưa đá, lũ ống mọi người vừa kinh sợ vừa căm ghét hắn, coi hắn là quỷ, là ma, là kẻ rước họa. Mẹ con hắn bị đuổi ra khỏi bản. Trong cái cộng đồng phải nương tựa vào nhau như trong rừng cây tựa cây, dưới suối nước tựa vách đá, dứt ra khỏi bản coi như sống cũng như chết, vậy mà hắn vẫn nhơn nhơn, vẫn đưa ra những lời phán chết người, lời hắn thối đến nỗi thấy hắn ai cũng phải bịt tai, nhổ nuớc bọt.
Sắn tìm đến Quấy.
Nhìn hắn pha nước mời kẻ khét tiếng khắp vùng mà nét ung dung, tự tin, coi thiên hạ dưới tầm con mắt lộ rõ Sắn ngầm thích thú. Quấy có dáng người cao ráo, khuôn mặt thể hiện cá tính mạnh, nhạy cảm, ý chí lộ ra từ gò má gày gò, đôi lông mày rậm gãy rủ, nhân trung thẳng, sâu, rộng như ai hằn sâu vào đó cái ngòi bút.
 Sau một hồi trò chuyện Quấy đã được lòng Sắn, được theo Sắn về Sán Chải. Dọc đường thấy đàn vịt quây trên bờ suối vươn cổ kêu quàng quạc đòi ăn. Vịt là loại sống dai, nhiều con bị lưỡi dao cứa ngang cổ, dốc sạch không còn một giọt tiết, đầu sắp lìa rồi mà chỉ cần buông tay ra là ngất nghểu chạy khắp vườn, lặn ngụp quanh ao, dọc suối như ma nhập. Bắt cả đàn vịt hóa kiếp không phù phép thì chỉ có cho ăn bả. Sắn mỉn cười tinh quái, bảo Quấy bảo  làm phép cho lũ vịt hóa kiếp. Quấy nhìn Sắn cười mỉn rồi chắp tay đọc thần chú, vái bốn phương tám hướng, hú ba tiếng động giời sau đó mở tấm phên cửa vây bước vào, đưa tay khoát nhẹ như bơi. Như có phép lạ, Quấy bơi đến đâu đàn vịt rủ xuống tới đó. Những con mắt chữ A cái mồm chữ O chưa kịp khép lại mà cả trăm con vịt đã ngả trắng xóa cả bờ suối.
 Sắn bị Quấy thuyết phục hoàn toàn. Hắn kết nghĩa anh em với Quấy, đón cả hai mẹ con Quấy về nhà, coi hắn như Khổng Minh tái thế. Ở bên Sắn, Quấy không phải làm việc gì trừ chuyện đọc sách, đoán định vận giời. Nhờ cưu mang của Sắn, Quấy đã được kinh qua cấp sắc bẩy đèn. Mặt âm, Quấy điều khiển bẩy mươi hai âm binh làm mưa làm gió. Mặt dương, Quấy được kè kè bên Sắn, đêm ngày bàn chuyện thời cuộc, bày mưu tính kế. Sắn bản tính bạo liệt, ham hành hạ, giết chóc nên gây thù chuốc oán nhiều, nhờ may mắn, nhờ cảnh báo của Quấy, hắn đã bao lần thoát hiểm, đã giữ được uy thế của mình.
*
*     *
Được Sắn hỏi chuyện đại sự, thày mo Quấy bối rối. Thầy hoãn binh bằng việc bảo Sắn xưng vua phải được trời phù, đất phù, thiên cơ phát lộ. Lời thầy chọc vào tính tự ái của Sắn, hắn ngửa cổ lên trời nghiến răng rồi cười sằng sặc. Thầy mo Quấy sợ hắn phát khùng sẽ phạm vào chốn linh thiêng nên đã khuyên hắn muốn biết vận giời phải dọn mình ba ngày để làm thủ tục mở tranh. Trong ba ngày ấy hắn phải không giết người, không giết súc vật, không nói tục, không đàn ông đàn bà. Nghe lời quân sư, Sắn đổi ý, răm rắp nghe theo. Lễ mở tranh không được như ý. Mở đầu của lễ, chậu nước rửa tay của thầy, của người thụ lễ biến thành chậu máu. Vào lễ, con gà sống sau khi cắt tiết đầu một nơi, thân một nẻo vẫn bay loạn xạ quanh hang.
Điềm gở làm cho Sắn bực mình, hắn lồng lên rủa xả giời đất, thề không làm được vua không làm người. Sự cuồng loạn như trâu đực cột giữa bãi bị đuốc dúi đít của Sắn khiến thầy mo Quấy phải nén lòng lạy van giời đất, lạy van các thần phù hộ cho Sắn lên ngôi vua.
*
*     *
Việc xưng vua của Sắn diễn ra vừa thuận vừa nghịch.
Khi ông mặt trời vừa bắt đầu một cuộc leo trèo mệt nhọc thì  hơn ba trăm đàn ông trai tráng trong đội quân người Dao nhũng nhẵng bám theo Sắn ngược dốc lên đỉnh núi Phan Si làm lễ.
Hơn ba trăm con người, hơn ba trăm tâm trạng, buồn có, phấp phỏng có, hoảng hốt, lo âu có, song không đường cùng, không bĩ cực.
 Hơn ba trăm con người, người đi trước dựa vào kẻ đi sau để vững bước, kẻ sau trông vào vết chân người đi trước để tìm chỗ đặt bàn chân. Tất cả đều hướng ngược lên người đi đầu là thủ lĩnh của họ. Cả đoàn nối nhau làm con rắn hổ mang khổng lồ trườn ngược. Dọc đường, cây cối gặp mưa phởn phơ, tươi rói, những cây vầu già mốc thếch như những chú trăn hoa dựng đứng rì rào chào đón.
 Đỉnh Phan Si, chóp mũ của người khổng lồ đất Việt, nơi quy tụ sức mạnh, quy tụ khát vọng vươn tới của con người đồng thời thể hiện sức mạnh, chế ngự của thần linh.
Tương truyền từ thời dựng nước, vua Hùng cho sứ giả dâng thiên tử nhà Chu một đôi chim trĩ trắng để cầu thân. Chim trĩ trắng là con của thần núi Hoàng Liên, uống sữa núi Hoàng Liên lớn lên. Trĩ trắng tượng trưng cho tinh khiết, thanh cao, khéo léo, là linh khí của thần núi, thần rừng người đời ngàn năm mới gặp. Trong cái lồng sơn son thếp vàng, với trọng trách sứ giả của hòa bình đôi chim cùng đoàn sứ thần rời đất Việt. Qua nhiều ngày tháng lặn lội, cuối cùng đôi chim trĩ cùng gốc gác ly kỳ của nó cũng  được dâng lên thiên tử. Cảm kích trước tấm lòng hữu hảo, cầu thân của vua tôi đất Việt, sau khi cho lưu đãi thăm thú khắp nơi thiên tử lưu luyến tiễn đoàn. Với năm cỗ xe chỉ Nam do vua nhà Chu ban tặng, đoàn sứ thần lại lặn lội chín lần đổi trạm, lại vượt qua bao gian nan trắc trở. Cả đoàn về tới biên ải. Cả đoàn đang bày tỏ mừng vui hoàn thành sứ mệnh thì đã thấy đôi bạch trĩ vắt vẻo trên ngọn trúc nước Việt tự lúc nào.
Tương truyền đôi bạch tượng, linh chủ của dãy Hoàng Liên trước khi về xuôi để thần dân Chân Đăng dâng vua Lý đã quỳ phục trên đỉnh Phan Si bảy ngày bảy đêm. Trong bảy ngày bảy đêm ấy trời đất cây cỏ được tắm trong ánh hào quang rực rỡ. Ban đêm bầu trời, mặt đất sáng như ban ngày. Ban ngày mặt trời dịu mát như mặt trăng. Những cây cầu vồng bẩy sắc đan nhau như cái chài khổng lồ úp chụp lên đỉnh núi. Vua nhà Lý nhận được voi thần như rồng thêm vây, hổ thêm vuốt. Nhà vua đi bình Chiêm thắng Chiêm, mở rộng bờ cõi được bờ cõi, mở mang bang giao được bang giao, mở rộng sự học được sự học, phát triển canh nông được canh nông… Đất nước thái bình, nhà nhà, làng làng yên vui, từ vua đến dân ai cũng biết ơn voi thần, biết ơn thần núi Phan Si.
Đó là chuyện của xa xưa, chuyện của biển cả bao la, còn với các tộc người mưu sinh dưới chân núi Phan Si thì từ khi sinh ra họ đã tin linh hồn những người về với ông bà, tổ tiên đã nhập vào từng gốc cây, tảng đá. Thần núi, thần sông cùng tổ tiên, linh hồn người Dao, linh hồn các tộc người khác quấn quýt đã cho con người nơi đây có sức mạnh, trí tuệ, phù hộ cho họ sinh sôi nảy nở, gốc ngọn vững bền. Song cuộc sống đâu chỉ có sự thuận chiều. Trong thế giới ánh sáng và bóng tối ngự trị, trong cái vòng quay biến hóa của sinh, tử, tái sinh, biểu hiện sức mạnh, biểu hiện quyền năng của giời đất, thần thánh nhiều khi làm khốn khổ chúng sinh.
Việc nổi giận của giời đất, thánh thần được các cư dân quanh chân núi Phan Si cắt nghĩa qua hai lần thủy, hỏa và với hai lần ấy dân chúng đã phải hai lần leo lên đỉnh núi Phan Si tế lễ thần linh.
 Đó là một lần nghiêng mình đổ nước ông giời đã gây cho sườn núi phía Tây của dãy Phan Si một trận lũ bùn kinh hoàng. Trong trận lũ ấy hai mươi nóc nhà chứa hơn một trăm mạng sống bị cuốn theo nước, bùn, cây cối ra sông Cái. Theo lời thày mo thì con người nơi đây đã xâm phạm chốn thâm nghiêm, linh hiển, can thiệp vào biến hóa thống trị vạn vật của giời đất, thánh thần. Đó là sự đẽo gọt mẹ rừng để thỏa mãn mưu sinh, là lạm dụng thần lửa để thiêu cháy sự sống, là… là…là phải làm lễ tạ tội với thần linh trên đỉnh Phan Si.
 Lời thầy là lời thánh, cả bản nhìn lại những việc làm của mình, cả bản thành kính, hối lỗi, cả bản bám đuôi nhau theo thày mo gùi những vật hiến tế lên đỉnh Phan Si làm lễ.
Lòng thành kính cùng khát khao của dân bản đã làm rúng động đến trời đất, thần linh. Sau lễ cúng ba ngày ba đêm thì trời đổ mưa. Một dòng chớp sáng lóe lên xua hết đám mây mù lưu cữu khiến cho tảng đá thần cùng người, vật, cây cỏ trên chóp núi sáng choang như vừa được gột rửa. Ai nấy thở phào nhẹ nhõm. Với sự linh hiển của thần linh, của giời đất, người Sán Chải đã tìm kiếm và lấy về chín mươi nhăm cái xác trong số hơn một trăm cái bị làm mồi cho thần sông thần suối. Dưới sự che chở của thần, của giời đất, màu xanh nhanh chóng trùm lên khắp rừng khắp núi; người, vật hân hoan trong cuộc sinh tồn, năm nối năm mưa thuận gió hòa, trời yên vật thịnh, thóc lúa đầy gác, trâu ngựa đầy chuồng, hội hè như con suối chảy giữa làng bản hết mùa này sang mùa khác.
Sự hội tụ của Thiên - Địa - Nhân tưởng như quanh năm chỉ biết đến rộn rã hội hè, rộn rã mùa vụ, nhưng không! Năm nọ không biết do con người cố tình làm ô uế thần linh hay thần linh cố tình thể hiện sức mạnh  mà từng nhà, từng nhà quanh chân núi lần lượt bị thần lửa hỏi thăm. Trong suốt những ngày ấy rừng núi răng rắc chuyển mình, cây cối ầm ầm trút lá, chim muông bật ra khỏi tổ vỗ cánh rợp trời, thú to thú nhỏ lao ra khỏi chỗ ẩn nấp, con người lấy hang hốc làm cứu cánh... Kinh sợ hơn là người ta nhìn thấy một con rồng lửa khổng lồ, khi ẩn, khi hiện. Con vật linh thiêng chuyên bảo vệ những nơi linh thiêng, diệt cái ác, tôn phù cái thiện, bảo vệ sự bất tử bỗng chốc là hiện thân của sự kinh hoàng.
 Thần rồng cuộn ngang cuộn dọc khắp bầu trời. Hai mắt thần như hai ông mặt trời thu nhỏ nhìn vào đâu là chỗ đó rực sáng, lưỡi liếm vào chỗ nào là chỗ ấy thành tro bụi. Sán Chải bị lưỡi thần liếm đến ngôi nhà thứ năm mươi thì không còn cách nào khác mọi người lại bấu víu vào thày mo. Thầy mo không còn cách nào khác lại bấu víu vào thần núi đỉnh Phan Si, cả bản lại làm một cuộc hành hương cực nhọc. Lần này, trong khi thầy làm lễ, trời đất ầm ầm chuyển động, đang trong nắng rực mà sấm chớp xé toác bầu trời, cơn giông kèm theo mưa đá ầm ầm lướt qua. Sau cơn giông một con rắn trắng nằm chảy thượt từ đỉnh núi tới tận chân núi. Dân bản theo thày mo xuôi theo cái xác rắn khổng lồ, họ đã lấy được hàng lô hồng ngọc trôi ra từ miệng rắn.
Sau hai lần tế lễ linh nghiệm người Sán Chải gắn chặt linh hồn vào thần núi Phan Si. Sinh nở họ hướng về phía thần núi cầu khấn. Ốm đau - hướng về phía thần núi khẩn cầu. Tai ương, mùa màng, về với tổ tiên - hướng về phía thần núi… Hầu như những việc lớn, việc nhỏ của đời người, của cộng đồng đều có sự tham gia, chi phối của thần.  Thần là mối liên kết giữa con người với con người, con người với thần linh, hiển hiện khát khao của con người.
Lần này, theo lời của thầy mo Quấy, theo lời thủ lĩnh Triệu Tá Sắn thì bọn Kinh áo đen, Kinh áo chàm ở Tây Bắc đang hợp sức đón bọn người Kinh ở cuối dòng sông lên xâm chiếm mảnh đất tổ tiên, đưa người Dao Sán Chải đến tuyệt diệt. Muốn bảo vệ giống nòi, muốn gìn giữ mảnh đất cha ông thì phải đánh đuổi bọn chúng. Muốn đánh đuổi được thì phải hợp sức lại, phải được thần núi Phan Si giúp sức, người Dao phải có vua của mình, vua đó chính là thủ lĩnh Triệu Tá Sắn, lễ xưng vua phải có sự chứng kiến, phù hộ độ trì của thần.
*
*     *
Đoàn người theo thủ lĩnh Triệu Tá Sắn lên tế lễ trên đỉnh Phan Si bám nhau ngược núi. Càng lên cao không khí càng loãng, bầu trời như bị ụp xuống, sương mây quấn quýt, bảng lảng trên cây, trên lá, con đường lúc chìm trong rêu, trong cỏ, lúc bắt chân người sục trong mùn, trong lá mục. Hai bên đường  miên man những cây sồi, sến, táu, dẻ, de, dổi lực lưỡng. Cây khoe tuổi mình bằng những lớp vỏ xù xì, mốc thếch, bằng từng mảng địa y ken dày, bằng cách thờ ơ với những toan tính của con người. Cây giống như những nhà hiền triết giấu mình ngàn năm trong biển mây màu xám bạc. Những tán lá xòa ra, đan nhau kết thành thảm xanh dày đặc khiến cho cả khu rừng thành mái nhà khổng lồ, mưa xuyên khó thấu, nắng khó dọi qua. Dưới gầm mái nhà màu lục là phong lan. Phong lan nhiều vô kể. Lan thả trên cây xuống. Lan bám vào vách đá vươn ra. Lan chui lên từ mùn đất. Các mầu tím, vàng, trắng của hoa như những cô gái dậy thì, vừa cố giữ vẻ e ấp, thẹn thùng, vừa hong hóng phơi bày vẻ đẹp giời cho trong mây, trong gió.
 Đoàn người vừa chui ra khỏi rừng già đã phải đối mặt với phễu gió. Hai dãy núi như hai cánh cung chạy đến đây bỗng hụt hơi tụt sâu xuống thành một vệt răng cưa lồi lõm. Những ngọn gió vô hồi quanh năm đuổi nhau từ Tây sang Đông bị ép chặt bởi hai cánh cung được dịp tung hoành. Khắp một dải núi hoang tàn vì gió. Gió không thành cơn thành lớp mà cứ ào ạt như đổ sỏi. Gió như bốc cả người, cả vật, cây cối ném xuống hõm đá. Gió vót nhọn từng mấu đá, xoa nhẵn từng mỏm đá. Gió làm cho cả một vùng đất đá mênh mông chỉ có rêu và những búi trúc quân tử ngang tàng mọc được. Rêu kết thành một tấm thảm khổng lồ bám vào mặt đá, mặt đất. Chui lên từ thảm rêu dày là những bụi trúc quân tử lơ thơ, thân sắt lại như đá, lá bị vót nhọn như mũi dao. Ngày cũng như đêm trúc cựa quậy, rên rỉ. Biết làm sao được, cây không tự mình bò ra khỏi biển gió thì đành phải bóp nhỏ thân, bóp nhỏ lá để tránh gió, để la đà làm bạn với mặt đất, dựa vào mặt đất. Rêu giữ nước, cây giữ đất, làm giầu cho đất, có cây, có rêu cái cái phễu khổng lồ này mới có sự sống.
 Qua phễu đá đoàn người chạm vào rừng trúc phất trần. Đúng là trúc núi Phan Si. Những cây trúc to hơn ngón tay ken dày như vườn cây cảnh. Cây lá vấn vít cùng mây khiến cả vùng lãng đãng như trong tranh cổ của người Tàu. Là họ hàng nhà tre, song trúc ở đây không uốn éo, cong cớn, chúng thẳng từ gốc đến ngọn, thẳng từ lúc còn măng, thẳng từ hàng, từ lối.
Qua rừng trúc mọi người như đi lên trời. Chìm trong mây, trong gió là những cây tùng còn sót lại từ thủa hồng hoang. Cây ở đây to nhưng lùn, rễ trồi lên gân guốc, địa y, phong lan ken kín làm cho chúng như cây cảnh. Quanh những cây tùng, cây bách là thảm hoa mênh mông. Trong nắng nhạt bủa vây cả một sườn đồi ngời ngợi sắc hoa đỗ quyên, anh đào, vàng anh, chè tuyết... Những cây hoa không vươn cao mà tỏa ra, la đà bò rộng. Chúng không cần làm duyên cho loài nào mà cứ tự nhiên với vòng quay tàn nở khiến cho mọi người cảm tưởng đã chạm được tới thiên đàng. Dọc đường, những con thú nhỏ dạn người thập thò, ngơ ngác rồi coi khinh, tiếp tục những trò chơi muôn thủa của mình.

Ngày kiên nhẫn ngược dốc, đêm nghỉ, đến sớm ngày thứ sáu đoàn người lên tới chóp núi Phan Si.
Theo lệnh của thầy mo Quấy mọi người dọn dẹp, chuẩn bị làm lễ. Một con dê, một con lợn được chọc tiết ngay tức khắc. Khi bụng con dê mở ra, quả mật to như quả gấc dính với lá gan, lá lách lằng nhằng làm mọi người mắt tròn mắt dẹt.
Quả mật được đưa lên cho thủ lĩnh Triệu Tá Sắn. Thủ lĩnh họ Triệu tái mặt hỏi thầy mo Quấy. Thầy mo Quấy gật gù hài lòng, thầy bảo:
- Ngày xưa vua nhà Lý đi đánh Chiêm Thành, khi làm cỗ Thái lao, mổ con dê ra, thấy trong bụng dê có cái mật to bằng quả bưởi. Mọi người thất kinh nhưng vua vui vẻ nói: “Chữ “đám” tức mật, gần với chữ “đam” tức vui. Cỗ thiếu lao mà có mật to báo cho ta chỉ khó nhọc một chút mà được niềm vui lớn”. Mọi người quỳ rạp chúc mừng vua cha song trong bụng nghi hoặc như đang đứng trước câu đố của giời. Trận ấy vua thắng lớn, bắt được cả vua tôi Chiêm Thành. Hôm nay thủ lĩnh làm lễ khởi sự dựng nghiệp đế vương mà được quả mật to thế này thì khác gì vua nhà Lý đi đánh Chiêm Thành ngày xưa.
Thủ lĩnh họ Triệu  mừng rỡ kêu lên:
- Trời đất đã đón được ý ta rồi! Thần núi, thần suối, thần sông phù hộ ta rồi!
Sắn chưa dứt lời, trên trời, bầu trời đột nhiên vần vũ, từng đám mây đen ùn ùn kéo tới, phút chốc mặt trời chìm nghỉm trong cái ô mang màu chết chóc. Dưới đất, rừng núi lặng phắc như trước đám tang, lam sơn chướng khí bốc lên ngùn ngụt khiến từng đàn chim nhao ra khỏi tổ kêu inh ỏi, từng đàn khỉ, vượn lao ra khỏi hang ngửa mặt lên trời hú hét…
Mọi người kinh hãi hướng lên chóp núi Phan Si quỳ rạp.
Thầy mo Quấy môi bậm chặt, quai hàm bạnh ra, nét mặt như hóa đá. Thầy nhìn giời, nhìn đất, nhìn chóp núi rồi lẳng lặng cúi đầu vái bốn phương tám hướng, rền rĩ kêu cầu tam tầng tứ thế mở rộng lòng thương cứu giúp những người đang hy sinh thân mình vì nghĩa lớn.
Lời khẩn cầu của thầy thả lên bầu trời - bầu trời roãng ra, mặt trời thành miếng tiết hằm hè cảnh báo một mùa bão tố.
Lời khẩn cầu của thầy thả vào lòng rừng, lòng núi - thần núi, thần rừng, thần gió trở mình, một cơn lốc ào đến cuồng nộ bứt phá, lay dạt khiến vạn vật phải gồng lên chống đỡ, ba trăm con người mê muội phải nằm rạp xuống đất, bịt mặt, bịt tai phó mặc cho số phận.
Lời khẩn cầu rền rĩ, dai dẳng cuối cùng cũng lay động được lòng giời, lòng đất. Mặt trời cuối cùng cũng phải lùi lũi chui vào trong núi mây. Thần gió cuối cùng cũng hết hơi hết sức, phải theo lòng khe, lòng rừng trôi xuôi xuống chân núi.
Trong dáng vẻ thần bí, thầy mo Quấy kết thúc bài khẩn cầu bi hùng của mình bằng một câu ráo hoảnh:
- Thiên cơ mách bảo, muôn sự muốn thành phải biện đủ lễ, cúng đủ ngày, không thể đi tắt đón chặn được.
Thủ lĩnh họ Triệu ớ người không hiểu.
Thầy mo Quấy bảo:
- Tức là lễ vật cúng thần phải dâng đủ ba sáu con vật, mười loại ngũ cốc, năm loại rượu, ba loại thuốc lấy từ rừng, từ ruộng.
Triệu Tá Sắn thất kinh.
Các thuộc hạ của Sắn nhìn nhau lắc đầu.
Sắn vò đầu bứt tai, đi đi lại lại rồi dừng lại trước thầy mo:
- Giữa núi cao vực sâu, trốn chui trốn lủi thế này lấy đâu ra từng ấy lễ vật bây giờ.
Thầy mo Quấy lẳng lặng với cái điếu, tra thuốc, châm lửa. Khói thuốc cùng với làn sương mây bảng lảng vấn vít quanh cái dáng hiền triết đang thiền.
Sau một hồi suy ngẫm, thầy thủng thẳng:
- Có cách chữa rồi đấy, nhưng phải có lòng thành mới làm được.
Sắn sốt ruột:
- Cách gì, ông nói ngay đi, cứ như trâu ăn no thế này sốt ruột lắm.
Thầy khoát tay một vòng:
- Làm việc lớn không vội như mổ thú mắc bẫy được, phải làm cho thần rừng, thần núi thấy được từng này cái lòng mới thành được.
Mọi người nhìn nhau dò hỏi.
Thầy:
- Đừng có như đang chui qua rừng ma thế. Mọi việc ta đang làm, lòng ta đang nghĩ thế nào đều có các thần chứng giám. Khởi sự cái việc rúng động cả trời đất càng có sự chứng giám. Muốn biện đủ lễ vật lấy từ rừng, từ ruộng ư? Dễ thôi! Trời đất, thần phật ăn hương ăn hoa chứ có ăn thật bao giờ. Quanh ta bạt ngàn cây cối. Quanh ta toàn những bàn tay tài hoa, nếu tất cả cùng một lòng thì việc gì mà không làm đươc.
Mọi người ồ lên:
- Một lòng chứ, không một lòng thì lên đây làm gì!
- Tất cả theo thủ lĩnh thôi, thủ lĩnh bảo lên rừng lên rừng, bảo xuống vực xuống vực mà.
- Thủ lĩnh sống chết vì Phòng Tô thì chúng tôi cũng sống chết vì Phòng Tô thôi.
Triệu Tá Sắn đứng ngây người, cánh mũi nở dần như cánh hoa ăn sương.
Thầy mo Quấy:
- Vậy thì tốt, các vị mang lòng thành của mình vào việc đi. Hãy nhớ ai có ý nghĩ hai lòng, ai nghi ngờ các thần là đan bồ câu thành quạ, đan hổ thành lợn lửng đấy.
Lời cảnh báo của thầy lập tức nhập vào từng người. Mọi người nhìn thầy, nhìn nhau, đôi mắt rực sáng như đang lên đồng. Theo lệnh của thầy mỗi người cho vào mồm một đồng bạc trắng rồi tản vào rừng. Người chặt nứa, chặt giang đan các con vật. Kẻ lấy đất nặn nồi, nặn các loại ngũ cốc. Kẻ chặt cây làm giàn cúng, lột vỏ cây để làm dép, làm khố..., đồng bạc trắng trong mồm vừa thành bùa hộ mạng, vừa nhắc họ đang làm một việc thiêng liêng.
Chưa đầy hai canh giờ giàn cúng và lễ vật đã làm xong.
Thầy mo Quấy tay cầm hương, chân đi vòng quanh, miệng niệm thần chú. Thầy tung hoa lửa, thầy phun nham thạch, thầy lên đồng hú hét, nhảy quanh lũ con chim, con thú  đan bằng lạt nứa, lạt giang.
 Mặt đất rùng rùng chuyển động, trời đất vần vũ.
Mọi người mắt nhắm nghiền, toàn thân run sợ ngóng theo vận giời, vận đất.
Trời yên, đất lặng, một vệt sáng chói lòa xoẹt qua làm mọi người bừng tỉnh. Ai nấy đều ngỡ ngàng, một thế giới loài vật vừa thật vừa giả, vừa chết vừa sống ngổn ngang trước mắt. Thế vào thế giới thần chết là thế giới thần sống. Voi đực hua vòi, mèo hớn hở, chuột nhắt tinh khôn, trâu nhà suy tư, uể oải, lợn mẹ quấn lấy đàn con, dê, bò hớn hở, hổ ngồi chồm hỗm chầu giời, chó nhà nằm cạnh chó rừng, cá chép ngáp trên thớt, sóc lo ổ, chim lo tổ… tất cả hiền lành, tất cả là bạn với người, là bạn với nhau.
- Đến lúc bày giàn cúng rồi đấy! – Thầy mo Quấy ra lệnh.
Thủ lĩnh Sắn và đám tay chân răm rắp như những âm binh nghe lời thầy phù thủy.
Chỉ một loáng giàn cúng đã bày biện xong xuôi. Trên giàn cúng được tết bằng nan tre có ba con vật hiến tế là gà, lợn, dê vừa đi từ cõi sống sang cõi chết nằm phủ phục, đầu hướng đầu lên mỏm đá đỉnh núi. Hướng theo chúng là lũ chim, thú, cá từ cõi chết sang cõi sống. Các vật tượng trưng cho vũ khí, các loại bẫy, nông cụ, vật dụng trong nhà được bày đặt theo trình tự, tôn nghiêm. Ngọn đuốc bằng gỗ pơ mu phơi nỏ cháy đùng đùng như tẩm dầu vừa làm cầu nối giữa giời giữa đất, vừa xua đi cái hoang vu giá lạnh của nơi quanh năm không có hơi người.
Sau giàn cúng là ba trăm con người trong vai những chiến binh thời trung cổ. Ba trăm con người đóng khố, đi dép vỏ cây rừng, trong tay người nào cũng giáo mác, khiên đao làm bằng gỗ đẽo.
Thành kính, mê muội bao trùm.
Thủ lĩnh họ Triệu đi quanh giàn cúng gật gù vẻ hài lòng. Sự mê hoặc có sức mạnh bằng cả một đạo quân. Trong cảnh trốn chui trốn lủi, giữa vùng rừng núi mênh mông, thiếu thốn trăm bề mà chỉ vài câu sai khiến đã có một giàn cúng tế. Dẫu giàn cúng không được bẩy tầng lộng lẫy, không bày biện đủ các con vật, vật dụng phục vụ thần linh, phục vụ con người, song cũng đủ để tỏ rõ lòng thành với giời đất, với các thần, đủ để đám thần dân mê muội tự nguyện nhảy xuống nước, chui vào lửa.
 Trong nghi thức trang trọng, trước sự thành kính của hơn ba trăm con người, thầy mo Quấy bình thản trộn tiết lợn, tiết gà, tiết dê vào nhau, vò nát nắm lá rong riềng dại, nhúng vào chậu tiết rồi lần lượt bôi lên các hòn đá, cây cỏ mời các thần về dự lễ.
Lễ cúng bắt đầu.
Những ngọn núi quanh đỉnh Phan Si lặng lẽ ngước đầu lên phía  anh cả.
Những mỏm đá, cây cỏ đứng lặng như đang chứng kiến cảnh giời đất trước giờ sinh nở hay trước giờ tuyệt diệt.
Thầy mo Quấy lặng lẽ châm lửa cho đống củi bùng lên rồi bắt đầu cúng.
Ba trăm con người quỳ mọp trước ngọn lửa, tim như ngừng đập, phổi như ngừng thở, mọi động thái dồn cả vào người làm cầu nối giữa con người với các đấng thần linh.
Lời cúng của thầy lúc dồn dập như trời đổ mưa, lúc nhẩn nha kể lể. Cùng với lời cúng, cái vòng bạc trong tay thầy lúc rung nhanh, lúc uể oải. Trước mặt thầy, con dao dính tiết gà, tiết lợn, tiết dê hết xám đen lại rực hồng như đang tôi trong lửa.
Tiếng cúng từ từ chui vào đánh thức rừng, đánh thức núi.
Những lời cúng, những động tác huyền bí, mãnh liệt, kiên nhẫn từ từ lách vào sự u mê của những người dự lễ.
Bài cúng đang lê thê, kể lể bỗng dồn dập, làm cho người nào người nấy phừng phừng, dậm dựt.
Bài cúng đã tới hồi cao trào. Miệng thầy bắt đầu hú lên những tiếng dài. Vừa hú thầy vừa đung đưa chiếc vòng bạc, vừa chạy quanh, rót rượu vào các bát trên giàn cúng, sau đó toàn thân ngất ngưởng lên đồng. Bỗng từ bốn phương tám hướng những đàn kiến lổm ngổm bò tới. Những con kiến thân to như con bọ ngựa, càng sắc, răng sắc, hai mắt lồi ra, sáu cẳng bò nhanh như ngựa phi làm mọi người khiếp sợ. Họ chỉ nghe tiếng rào rào như mưa rơi, như nước cuốn đã thấy cây cối nghiêng ngả, một tấm thảm đủ màu đen trắng, vàng, vằn vện tràn tới, tỏa rộng. Cây chắn đường – mặc. Lá mục chắn đường – coi khinh. Rêu trơn - không là gì… Ầm ào song hàng lối, mệnh lệnh nghiêm chỉnh. Đông đúc song trật tự, kỷ cương, lúc vòng vèo như con suối, lúc dóng hàng một như duyệt binh.
Đàn kiến lổm ngổm bò đến quây quanh giàn cúng, chỉ một lát sau những hàm rằng đói khát đã xơi sạch xôi, lợn, gà, rượu.
- Vua kiến bị đánh thức rồi! - Tiếng rên của ai đó bật ra. Như một dây chuyền tất cả cùng rùng mình, cùng bật lên những tiếng rên khiếp sợ.
Kiến là đội quân đông đúc nhất thế gian. Kiến có mặt ở mọi nơi, mọi chỗ. Bình thường kiến hiền lành, cần mẫn, không làm hại kẻ nào, tránh xa những kẻ hại mình, nhưng khi gặp cơn đói hoành hành, cơn giận trào sôi thì đội quân ấy có thể làm tan hoang cả một cánh rừng. Con vật dù to lớn hay nhanh nhẹn, thông minh đến mấy gặp chúng cũng biến thành  đống xương khô.
  Vua kiến là thống soái, là ông giời của tất cả các loài kiến sinh sống trong rừng. Vua kiến luôn sống trong trạng thái nửa thức nửa ngủ. Trong trạng thái ấy vua dồn sức cho việc nghe ngóng, dự báo và dạy bảo thần dân của mình. Vua kiến quay về hướng Tây rùng mình - họ nhà kiến biết trời đất sắp làm nên lũ lụt. Vua kiến hướng lên chị Hằng quầng vàng như đeo tang mà rơi nước mắt - họ nhà kiến biết mặt trời còn rang khô mặt đất. Vua kiến rùng mình, hai râu dựng ngược, hai hàm răng nghiến như cưa gỗ - quanh vùng có chết chóc, có tan nát, có những hàm răng đói khát, thù hận gặm sồn sốt trên cơ thể sống, trên cơ thể chết.
Cư dân quanh chân núi Hoàng Liên đã hai lần đánh thức vua kiến.
Lần nọ, một đàn hổ dữ từ phía mặt trời lặn xâm phạm lãnh địa của các loài ăn thịt dưới chân núi Hoàng Liên. Để sinh tồn, từ ngày ông Chằng bà Chằng nặn ra đất ra nước các loài dưới chân núi Hoàng Liên đã phân chia lãnh địa. Trên lãnh địa mỏng manh ấy tùy theo vóc dáng, nanh vuốt trời cho mà mỗi loài tự tồn tại, tự sinh sôi, tự làm mồi cho nhau. Cuộc tranh giành sự sống khắc nghiệt, dai dẳng hết đời này sang đời khác song chưa hề có sự tuyệt diệt. Hổ dữ đến, ranh giới lãnh địa bị xóa nhòa, các loài tan tác trong sợ hãi. Nghe tiếng gầm của chúng hầu hết các loài có da có thịt bọc xương tự ỉa, tự đái. Nghe tiếng gầm của chúng, thần núi thần rừng bạt vía, kẻ chui sâu vào lòng đất, cứt đùn khắp mặt đất như bãi biển ban sáng, kẻ bay vút lên giời cao, nước đái phọt ra rơi xuống như giời đang đổ mưa...
Vật vậy, thần vậy, song những con vật cùng loài thì khác. Không chịu nằm yên chờ chết, họ nhà hổ quanh núi Hoàng Liên xông vào cuộc chiến một mất một còn. Hai loài mãnh thú đánh nhau, một to lớn, hùng dũng, một nhanh nhẹn, thuộc núi, thuộc rừng. Mỗi loài đều lôi hết sức mạnh, trí khôn giời cho ra để tiêu diệt nhau. Hai bên quần nhau bẩy ngày bẩy đêm mà vẫn không bên nào chịu bên nào. Khắp vùng cây cối tan nát tan, đất sụt, đá, loài nào cũng bị vạ lây. Loài kiến cũng cùng chung số phận. Rừng cây gẫy cành rụng lá rụng luôn cả những tổ kiến chứa hàng tỷ con. Đất lún, đất sụt làm sụt luôn cả những lâu đài kiến yên ổn cả trăm đời. Các đàn tan tác, nháo nhác kéo đi cầu cứu vua kiến. Vua kiến nổi giận, hùng hổ dẫn các thần dân đi tiêu diệt những kẻ quấy phá. Loài kiến vốn có kỷ cương, kỷ luật, trong hỗn loạn bao trùm chúng vẫn loài nào ra loài ấy, đội nào ra đội ấy. Dẫn đầu đội quân trừng phạt là vua kiến. Tiếp theo là các kiến tướng, kiến quân. Kiến tướng đầu to, thân nhỏ, bụng to, sáu cái chân nguềnh ngoàng, hai râu vung vẩy, hai cánh to như hai cái quạt trong suốt như lụa tơ tằm. Kiến quân tỏ rõ sức mạnh của mình bằng sự hung tợn, bằng số đông. Tất cả ào vào tàn phá.  Kiến nâu trung thành, đông đúc tạo nên một dòng chổi lớn, đi đến đâu quét đến đó. Kiến thợ mộc đục gỗ sồn sột, lem lém như cưa ăn, chỉ một lát bị gặm cây đã rỗng ruột, mất gốc, đổ rào rào. Kiến nâu đầu đen, ngực vàng, đầu to, càng sắc, râu chia làm ba đoạn, lông bạc dựng đứng, trông như những hung thần xông vào cắn lá. Kiến đất to như những con ong chậm rãi bò đến nhằm vào mọi con vật biết cựa quậy mài răng. Kiến đầu to kềnh càng, đầu thắt lại sau mắt, bám chắc vào từng con vật cắn xé. Kiến đỏ hung tợn tấn công đối phương chán chúng quay ra tấn công nhau.... Khắp rừng vang động những âm thanh giết, chết.  Khắp vùng, cây đổ, cây trụi lá. Hươu, nai, dê, hoẵng... vừa kêu la tuyệt vọng, vừa chạy nhảy như động cỡn. Những con hổ đang hùng hổ lao vào cắn xé nhau phút chốc bị kiến bu đen phải lồng lộn trong hoảng loạn, gầm lên trong đau đớn. Những con hổ đực đang hung hăng trút giống nòi lên bụng con cái kẻ thù phút chốc cả hai đều chết cứng như bị đóng băng. Sau một buổi đàn hổ không còn, những con vật biết cựa quậy không còn, rừng núi rã rời, tan hoang để rồi mãi mãi trở thành vùng đất chết.
Sau trận loạn hổ đến trận loạn người.
Lần ấy người của chúa đất bản Nà Lùng mâu thuẫn đốt nhà giết người của chúa đất bản Tả Chải. Hai bản vốn truyền kiếp không chung đường nay hận thù có cớ bùng lên. Chúa đất bản Tả Chải mang người tàn sát bản Nà Lùng. Chúa đất bản Nà Lùng mang người đến làm cỏ bản Tả Chải. Đá chạm đá, lửa chạm lửa, chết chóc, đau đớn, thù hận làm cho trời rùng mình tối sầm, đất rùng mình đất sụt, cây cối rùng mình lật gốc, trốc ngọn, các tổ kiến, tổ bị sụt đất trơ hoang hoác, tổ bị cây đè, đá đè, thú dẫm. Lại một lần nữa các đàn kiến nháo nhác quây quanh vua kiến. Lại một lần nữa vua kiến nổi giận. Một lần nữa vua kiến chỉ huy thần dân xông vào khói lửa đòi lại sự yên ổn.
Lúc vua kiến dẫn đàn đàn lũ lũ thần dân xông vào cũng là lúc hai bản bị tuyệt diệt. Loáng một cái, những cái đầu u mê chứa đầy thù hận đang bàn mưu tính kế không còn mẩu thịt bám vào xương. Loáng một cái những cây cột cái, cột quân, xà dọc, xà ngang, rui mè, phên vách, mái lợp bị gặm rỗng. Ngôi nhà đổ sụp xuống, bếp lửa bùng lên, xác kiến, xác người, xác động vật, cây cối, phân gio bốc lên khét lẹt, gây như nướng cả rừng người. Cả hai bản bị xóa sổ từ vết máu đến ống xương mà vẫn chưa thỏa mãn những hàm răng đói khát của những đàn kiến.
Còn lần này!...
Mọi người rùng mình, nhắm mắt, nín thở đón đợi tai họa. Nhưng không! Mặc đàn kiến vây quanh dọa dẫm, đùa bỡn. Mặc vua kiến trèo lên đỉnh đầu thày đái xuống. Nước đái của vua theo dòng theo vệt mà lời cúng rền rĩ của thầy vẫn bình thản thả vào giời, vào đất.
Sau hồi lâu trêu chọc, thử thách thầy mo không kết quả vua kiến lắc đầu, tụt xuống rồi dẫn các thần dân  lặng lẽ bò vào rừng.
Thầy vẫn đang trong trạng thái lên đồng.
Thân thể thầy dẹo dọ, ngất ngây. Thầy cầm bầu rượu tưới lên tảng đá thiêng. Tảng đá thiêng rực lên màu thép tôi. Bầu rượu tưới lên các con vật. Các con vật bừng thức, ngọ nguậy. Bầu rượu chuyền tay dọc hàng quân. Hàng quân người nấy phừng phừng ngậm lửa.  Miệng thầy bắt đầu hú những tiếng man dại. Người thầy quỵ xuống trước giàn cúng rồi hai tay từ từ hạ đất. Âm thanh từ chiếc vòng bạc trong tay thầy thưa dần rồi im bặt. Trời bỗng đổ mưa rào. Những giọt mưa thi nhau quất xuống mặt đất ràn rạt, phút chốc cả mấy trăm con người cùng rừng cùng núi chìm trong mưa, trong gió.
- Trời giúp ta rồi! Trời giúp ta rồi! - Triệu Tá Sắn – Vị vua đầu tiên của người Dao Phòng Tô hứng khởi gào lên rồi nhảy lên tảng đá giương súng lên giời bắn liền ba phát.
Như hiệu lệnh các chiến binh ồ cả lên rồi cả vua lẫn tôi ôm nhau nhảy múa điên cuồng, những tiếng hú, tiếng hét vang lên khuấy đảo cả một vùng muôn năm chìm trong tĩnh lặng.


4
Có tiếng rụt rè gõ cửa.
Sắn giật mình, co người thế thủ.
Một người con gái đẩy cửa bước vào rồi ý tứ khép cửa lại, trên tay cô gái là một mâm thịt sống.
Sắn hết nhìn mâm thịt lợn sống thái rối rồi lại nhìn cô gái đồng tộc xinh như mộng. Bất giác cái lưỡi thèm thuồng của Sắn thè dài liếm qua, liếm lại, nước bọt ứa ra đầy mồm.
Sắn đã từng nổi tiếng trong ăn uống, chơi bời theo kiểu thổ phỉ.
Về món thịt sống! Con lợn mổ ra thịt còn nóng rẫy, Sắn tự tay rạch một tảng ba chỉ, tự tay thái mỏng, bóp chanh, gừng, thính gạo rồi cứ thế nhắm rượu. Đi săn bắn được hổ, gấu, hươu, nai..., Sắn cho mổ  tại rừng rồi xẻo ngay buồng tim, lá gan ăn sống. Mổ trâu, mổ bò, Sắn cho mang rượu, mang rau thơm ra bày tiệc ngay tại bãi mổ. Khi con vật bị chọc tiết rống lên báo hiệu kết thúc kiếp vật để sang kiếp giời lập tức những bó đuốc được mang tới. Trước sự háo hức của Sắn, bọn lính thui con vật vàng ươm ba đùi, hắn cầm ống nứa non vót nhọn xiên mạnh vào phía đùi con vật chưa thui. Thịt đùn lên đầy ống nứa, hắn dùng dao phạt ngang, đổ ống thịt ra tlhớt, thái mỏng, rồi cứ thế vừa thổi vừa ăn, máu chảy ròng ròng trên tay, trên cổ. Thịt ốp ếp, máu ốp ếp, chấm nước mắm cá ăn ngọt rêu rểu như thịt nai tái.
Về chơi bời, gái gú!
 Dòng máu chảy trong người Sắn pha máu loài mãnh thú. Còn hơn cả loài mãnh thú, đó là con người. Loài mãnh thú thể hiện sức mạnh giống đực của mình bằng hàng chục cuộc giao hoan mỗi ngày, song mãnh thú dục cuồng có mùa, loài người dục cuồng quanh năm. Sự kết hợp giữa hai dòng máu khiến cho sự mãnh lịêt, sung sức, kết hợp với dẻo dai thường trực làm nên một Triệu Tá Sắn lừng danh chuyện đực cái.
Sắn biết đến sự sung sướng từ lúc còn để chỏm.
Lần đó Sắn dẫn bọn con gái vào rừng hái nấm. Sau mưa nấm đội khắp rừng. Nấm mối nở trắng như vãi gạo, nấm hương mọc kín thân gỗ mục, toàn những thứ nấm ăn vào ngon quên chết lôi bọn trẻ vào rừng. Cả bọn tản ra bốn phương tám hướng đang hào hứng tìm nấm thì một đứa con gái phát hiện ra một chùm nấm khổng lồ mọc lên từ bãi phân voi. Những cây nấm thân mũ trắng hồng lực lưỡng trồi lên kết thành một mâm hoa đẹp một cách khỏe mạnh, lạ lẫm khiến cho đứa con gái đã bước qua tuổi mười lăm như bị hút hồn. Nó nhìn trước nhìn sau. Cả bọn đã chui sâu vào rừng. Nó mặt mũi đỏ bừng, cổ họng bỏng rát, tay chân luống cuống. Đàn ông người Dao tắm suối thường khoe toàn bộ thân thể trước trời, trước đất. Sự vô tình chết người ấy hút hồn những thiếu nữ tò mò như nó. Nó đã thao thức đến khổ sở với hình ảnh đồng hồ quả lắc nửa núp nửa không của những người đàn ông quăng chài. Nó đã lịm người trước cảnh thân thể trần truồng, nửa chìm nửa nổi của các anh thanh niên trên suối.
Nó lại nhìn trước nhìn sau. Sự vắng lặng, dịu dàng của khu rừng đồng lõa với những ý nghĩ nổi loạn của nó. Nó ngồi thụp xuống, rụt rè đưa hai tay vuốt ve những cái mũ trắng hồng. Da nấm mát lạnh hay sự liên tưởng chết người làm cho nó mê man. Nó cứ vuốt ve cái nấm như vậy cho đến khi cả bọn như đàn chim ríu rít gọi nhau về tổ  nó mới bừng tỉnh. Nó khoác cái gùi nhẹ tênh theo chân cả bọn mà đầu óc vẫn vướng vít, ám ảnh với cái mâm nấm chết người.
Cả bọn về đến thác nước, Sắn ra lệnh cho cả bọn xuống tắm. Cả bọn lập tức cởi  quần áo ném lên tảng đá rồi chui vào trong thác đổ trắng xóa, thích thú đùa nghịch, trêu tròng. Chúng vô tư như mọi ngày nhưng đứa con gái nghịch nấm phân voi không vô tư được nữa. Nó cứ rà rà bên Sắn. Túm lông mọc bất thường của Sắn ám vào nó. Dáng vẻ hứa hẹn sự cường tráng của Sắn ám vào nó. Nó giả vờ trượt chân để ôm chặt lấy Sắn, da thịt mát rượi như da nấm của Sắn làm nó ngây ngất. Nó làm cho con chim non của Sắn động đậy rồi chỏi ngược lên, bản năng trỗi dậy, nó rùng mình, hấp tấp kéo Sắn chạy lên sau tảng đá, cho Sắn biết thế nào là sự sung sướng.
Từ lần đực cái đầu tiên Sắn ngộ ra sức mạnh của mình. Nó đã dùng mọi nanh vuốt có được trong tay để dụ dỗ một loạt đàn bà con gái nhập cuộc. Hắn khỏe. Không những khỏe mà còn biết làm cho mình khỏe.  Khi được phép nghiêng trời, lệch đất, hắn lệnh cho khắp vùng săn, bẫy được thú rừng, ngoài cống nạp thịt, xương ra còn phải dâng cho hắn bộ truyền giống. Cánh thợ săn bẫy được hổ dâng lên hắn bộ ngẩu phín. Khúc thịt thừa của hổ đực rời khỏi thân xác cả ngày giời mà khi cầm trên tay vẫn ngỏng lên như chạm vào da thịt hổ cái. Hắn cho lấy rượu, thuốc bắc, gừng giã giã nhỏ đổ vào nồi đất rồi cho cả bộ truyền giống ấy vào hầm, ăn xong cả người ngọ nguậy, muốn vác chày giã cốm ra đâm nát cối gỗ, cối đá.
Sức lực vốn có cộng với bổ dương tráng khí nạp hàng ngày biến hắn thành con hổ vào mùa đực cái. Loại đàn bà nhỏ bé như quả mướp thui chột qua một đêm với hắn biến thành cái xác không hồn. Loại người cao nhẳng, có tiếng dâm dê, một tuần với hắn là vái giời vái đất. Chỉ những người có vóc dáng khỏe mạnh, eo thon, vú, đít nở nang mới chịu nổi hắn. Mà phải chịu tập thể, phải theo kiểu hứng tình của mãnh thú. Khi hắn còn làm Đội, quây quanh hắn lúc nào cũng có sáu người đàn bà hầu hạ. Tối tối, trong yên tĩnh của núi rừng, của căn nhà biệt lập rộng thênh, Sắn cùng sáu người đàn bà như đàn hổ trong mùa giao phối. Tất cả quây quanh bếp lửa củi pơ mu cháy rừng rực. Tất cả không có gì vướng víu trên người. Lúc đó lũ hổ cái gầm gừ tự sướng, gầm gừ cắn xé nhau. Kẻ quỳ ngang người bú mớm, kẻ nhắm mắt rên hừ hừ như đang bị ai bóp cổ, kẻ cong người uốn éo như bị động kinh, kẻ nhảy chồm chồm, hai bầu vú thỗn thện nảy tưng tưng khiêu khích. Lúc đó Sắn biến thành con hổ đực dũng mãnh, gầm gừ liếm láp từng con hổ cái. Hắn gào lên như hổ sắp chết gọi đàn. Cả đàn hổ cái gào lên đáp lại. Cả căn nhà gầm vang tiếng khoái lạc đến mức đàn ngựa trong chuồng không chịu nổi phải hý lên những tiếng thê thảm, đàn lợn hứng chí lồng lộn quanh chuồng. Hổ đực, hổ cái tự làm sướng mình, khổ mình cho đến khi cả ngôi nhà ngập trong mùi đực cái, bẩy con thú rã rượi như cỏ bợ gặp trời mưa chúng mới lăn ra ngủ.
Sắn cai được thú dâm loạn được gần  hai ngàn ngày.
Sau khi đăng quang ngôi vua Triệu Tá Sắn đưa quân lính về Tổng hành dinh là khu rừng quen thuộc giáp với biên giới Việt - Trung.  Đúng như lời hẹn ước, Sắn về hôm trước thì hôm sau quan Ba Đờ ri nhô có mặt. Theo chân quan Ba, từng tốp, từng tốp máy bay Henscát thay nhau thả những kiện hàng xuống khu rừng. Cùng với súng ống, đạn dược, gạo, ngô, thịt hộp, dầu, muối là ba tên lính Pháp mang theo máy bộ đàm để tổng hành dinh a lô với bên ngoài. Hai trăm tàn binh Tưởng Giới Thạch cũng được tập hợp dưới trướng vua Sắn.
Dưới sự chỉ đạo của quan Ba, Sắn lập ra “triều đình”, chia năm trăm quân ra thành hai tiểu đoàn. Danh đã chính, ngôn đã thuận, Sắn hiệu triệu dấy binh. Cả vùng Dao vùng lên theo vua kháng chiến. Cả vùng Tày, Nùng, Pú Nả, Hmông vì nể, kết mối bang giao với vua, cùng vua thề quét  hết Việt Minh ra khỏi vùng rừng.
“Nghiệp sẽ thành nếu thủ lĩnh bỏ được tính háo sắc”. Nghe lời thầy mo Quấy, vua Sắn đã nhịn gái như nhịn ỉa. Rồi thì ỉa đái ai nhịn mãi được. Lúc làm đội một lô đàn bà con gái theo hắn vì dâng hiến có, vì tiền tài, bắt ép có, đến lúc làm vua đội quân đó càng nườm nượp. Người ta coi hắn là mặt trời. Mặt trời soi rọi tới đâu là ở đấy mầm xanh lộc biếc nảy nở. Người ta coi hắn là vua, đàn bà con gái ngưỡng mộ vua tìm mọi cách để ra mắt, để dâng hiến, bọn quân cán nịnh chủ càn vào làng nào, bản nào thấy hoa đẹp, người khỏe là hái về, bắt về dâng vua. Giữa lúc cái sống, cái chết đan nhau mà mấy chục người đẹp vây quanh thì nhịn sao nổi.
Thấy con quỷ dân dục cuồng loạn của người mình phò tá ngùn ngụt thầy mo Quấy ra sức can gián. Nhưng than hồng đang được gió, trâu đói đang giữa ruộng mạ có cản đằng trời. Không cản được thì đường ai nấy đi, trong một đêm trăng sao đầy trời thầy mo Quấy lẳng lặng cõng bà mẹ mù lòa trốn mất tăm.
Quân sư bỏ đi, Sắn mất một cách tay song cũng vơi đi một cặp mắt nhòm ngó, vơi đi những lời can gián vào sự sướng khoái đang dâng lên như lửa như nước. Sắn cho người đi tìm quân sư khắp rừng khắp núi song thấy quân sư như rùa xuống vực, hắn chậc lưỡi cho qua rồi lại chìm sâu vào ăn chơi hưởng lạc đến mức bỏ bê mọi công việc nên mới bị Việt Minh đánh cho vua tan lính nát.

Người con gái đặt mâm thịt xuống phản, ngước mắt nhìn Sắn.
Cô gái đẹp. Quá đẹp. Sự viên mãn lồ lộ trong cặp mắt sáng rỡ dưới hàng lông mày rậm. Hai vú đội lên như hai quả núi. Bên dưới eo là cặp mông phình ra như vẽ. Đàn bà con gái của nhiều tộc người đã qua tay Sắn, song để hắn đắm đuối, điên cuồng nhất vẫn là những cô gái người Dao. Với hắn, những cô gái Nùng, Tày, Xa Phó, Hmông đặt bên cạnh những cô gái Dao chỉ là những bát canh nhạt bên cạnh bát thắng cố bốc khói, bát rượu đao bên bát rượu ngô tăm bò như tăm cá. Người Dao sinh ra đã ở giữa rừng. Sức sống bền bỉ, mãnh liệt của núi rừng chui sâu vào da vào thịt nên thấy người là thấy lửa. Đàn bà còn hơn thế, dường như linh khí của núi rừng tụ cả vào họ. Đôi chân leo núi suốt ngày nuôi dưỡng cặp mông chắc, khỏe. Quanh năm căng ra đón những ngọn gió trong lành làm cho bộ ngực vồng lên. Ngày ngày ngụp lặn trong dòng sữa của núi làm cho da dẻ như ướp trong lửa. Khuyên tai bằng bạc to như miệng bát cho tai người thành tai phật. Vòng cổ, vòng bạc xếp chồng trên cổ, trên cổ tay, khuy bạc lấp lánh trên áo. Hơi bạc xua đuổi ma tà, khí độc. Tiếng bạc lanh canh gợi tình. Vòng bạc mát lạnh áp ngày áp đêm làm cho người ngợm cựa quậy không yên. Màu đỏ từ khăn, áo, màu trắng lạnh của bạc, màu đen của vải khiến cho người đàn bà người Dao lúc nào cũng như mời, như gọi.
 Cô gái Dao đang đứng trước mặt đúng là loại người Sắn đói khát. Con mãnh thú trong Sắn vùng lên đòi quyền sống, mắt hắn long sòng sọc, người ngợm hừng hực bốc lửa.
Sắn có ba bảo bối hút hồn người khác giới, đó là đôi mắt có con ngươi đỏ, tật liếm mép và con chim hùng dũng có nốt ruồi đỏ.
Đôi mắt hổ chưa được luyện thôi miên đã nhìn đâu đấy bốc lửa, qua luyện thôi miên nhìn đâu đấy chết.
Liếm mép là biểu lộ sự thèm thuồng, nhìn cái lưỡi hổ của hắn thò dài quét sang hai bên mép là những con hổ cái nhắm mắt, đê mê đón đợi kẻ ăn thịt mình.
“Con chim” hùng dũng có nốt ruồi đỏ đậu ngay trên đầu hệt như mào con gà sống cựa khiến kẻ khác giới trông thấy là đã biến thành con gà mái mỗi buổi sáng bước ra khỏi chuồng.
Choang - Cái đèn dầu trong tay cô gái rớt xuống, tứ chi nhũn ra, cả hai cuồng loạn, sục sôi, dường như cả mùa lũ dồn cả vào cái ngách nhà như cái hũ.
Cả hai đang hân hoan sôi réo thì Sắn bỗng giật mình, dừng lại, rã rời.
 “Nghiệp sẽ thành nếu nhà vua bỏ được tính háo sắc”. Khi bị đánh cho tan nát, quân không, tướng không, dân không, bản thân mình phải chui lủi chốn rừng sâu Sắn mới thấy cái tai hại của đam mê cuồng loạn. Hoàn cảnh, thù mình, hận người, mưu mô phục thù đã làm thay đổi tâm tính của hắn. Sau thất bại thảm hại hắn trọng mạng mình, trọng mạng người. Những kẻ theo hắn, sống chết vì hắn, hắn coi như chân tay, ruột thịt, cùng ăn, cùng ở, cùng chia sẻ, điều gì không nên làm, hắn không cho làm, nguy hiểm nào thoát được, hắn tìm cách cho thoát. Thất thế sa cơ hắn mới thấy sức mạnh của dân chúng, mới biết dân chúng ngả về bên nào bên ấy được. Có dân chúng hắn mới leo được lên đỉnh cao của quyền lực. Có dân chúng hắn mới thấu hiểu thế nào là thuyền, là nước. Để tránh trộm cướp, nhũng nhiễu dân chúng, tránh tàn sát lẫn nhau, hắn cho quân, cho tướng tản về mỗi nhà, lấy mỗi nhà làm lô cốt, làm kế lâu dài. Để không dối mình, dối người, ràng buộc giữa mình, giữa người, hắn cho làm những cuộc ăn thề long trọng, lấy giời đất đảm bảo cho lời nói của mình. Để tránh hận mình, hận người, hắn cố không nói hai lưỡi, bớt lòng tham, bớt nóng giận, rõ ràng, phải trái phân minh. Để lửa dục nguội lạnh, hắn lấy lá thuốc đắp ụ cho của quý teo dần. Để nuôi cứng nuôi lực, hắn giao cho các đầu lĩnh, thổ ty khuấy động dân chúng trồng, buôn bán thuốc phiện, tích trữ tiền nong, lương thực. Trong thời buổi sáng tối nhộm nhoạm làm cái việc đẩy tội lỗi cho người khác thì khó, chứ nhận tội lỗi về mình thì khó gì.
Trong những năm tháng gian khổ đó đặc biệt nhất của Sắn là luyện thôi miên.
Thôi miên là bản tính, là sức mạnh của loài hổ. Hổ khuất phục con mồi bằng hai con mắt. Gặp hai con mắt đỏ đọc trợn trừng là con mồi to cỡ nào, ranh mãnh, ác độc đến mấy cũng hồn vía bấn loạn, tứ chi lẩy bẩy. Sắn nuôi âm nuôi ỉ trong người lòng thù hận. Sắn dung dưỡng cái chí của người khoan nòng súng. Sắn có dòng máu hổ trong người. Khi nhận ra chân mệnh đế vương chỉ là tự thổi gió thổi bão vào bụng Sắn biết mình cần phải uy lực cụ thể mới làm nên nghiệp lớn.
Sắn luyện thôi miên bằng cách chui xuống hang Bất tử.
Hang Bất tử nằm giữa rừng Pu Sam Cáp hình thành từ thời khai thiên lập địa sâu tới dăm cây mai đại nối nhau. Những giọt nước cả vạn năm kiên nhẫn bồi đắp nên những nhũ đá muôn hình vạn trạng từ trần hang thả xuống, từ nền hang ngỏng lên. Ngược theo dòng ánh sáng bằng đầu đũa chiếu thăm thẳm từ trần hang xuống là gặp giời.
Thôi miên là luyện cho ánh mắt, tư tưởng tập trung vào một chỗ cố định, là thời gian tập trung của hai con mắt nhìn vào một điểm tăng dần theo sự luyện tập. Sắn chuẩn bị lâu dài cho việc luyện thôi miên. Trước khi hắn trú ngụ tại cái hang độc nhất vô nhị thì chủ của nó là loài giơi. Loài động vật có vú biết bay này treo lủng lẳng đầy trần hang. Chúng sẽ vừa là thức ăn hàng ngày, nguồn thuốc súng quý giá, vừa là sợi dây nối sự sống của hắn với bên ngoài. Hắn dặn dò tả hữu mọi việc, đuổi hết chúng lên mặt đất rồi sửa soạn chỗ chỗ ngồi, ngoài lúc ăn, lúc ngủ, lúc giải quyết chất thải ra, ngày ngày hắn bắt đôi mắt vuốt dọc theo chiếc đũa ánh sáng để đến với trời xanh.
Sắn luyện thôi miên đủ bốn mùa cây thay lá, đủ cho hắn đổi khác từ giọng nói đến cách mê hoặc lòng người. Ra khỏi lò luyện, đồng tử hắn đỏ lừ, tinh anh, lòng dạ rõ ràng như lòng hổ. Hắn nhìn cây - cây rung rinh; nhìn thú - thú run rẩy; nhìn vào mắt người nào - mắt người ấy chân tay nhũn ra, không cảm giác. Con ngựa cao lớn, người đứng bên kia không thấy mặt người bên này, hắn chỉ cần nhìn vào mắt, vỗ tay ba lượt là quỳ hai chân trước xuống như con trâu thuần... Đã gần năm nay Sắn mang cái chí rời núi lấp sông, cái kết quả của khổ luyện đi dẫn dụ, mê hoặc lòng người để  lập nên Mặt trận Phòng Tô tự trị.
“Nghiệp sẽ thành nếu nhà vua bỏ được tính hám sắc”. Câu cảnh báo của thầy mo Quấy văng vẳng bên tai làm cho Sắn bàng hoàng, tỉnh ngộ, hắn nghiến răng mặc lại quần áo, bắt cô gái làm theo rồi đẩy cô ra ngoài.

5
Lễ cấp sắc đang chuẩn bị xử án ma quỷ.
Trong hành trang chạy loạn, ngoài những thứ thiết yếu cho cuộc sống mang theo cha ông người Dao còn nuôi giữ trong mình nhân, hiếu, đễ, trung, thứ, lễ nhạc. Từ đạo của Thánh Khổng người Dao ý thức được việc lấy đức để trị, lấy phép tắc làm đầu, trong những dịp lễ trọng người Dao thiết lập tòa xử án đánh đuổi ma quỷ, giữ yên cho bàn thờ tổ tiên theo nghi lễ của triều đình.
Như mọi cuộc xử án khác, thánh đường nhà họ Triệu được dựng trong gian nhà thiêng. Hai tấm màn đỏ rực kéo từ cửa vào thánh đường tỏ rõ sự lộng lẫy, nghiêm cẩn. Điện đón vua quan, thánh thần, tổ tiên chín tầng, chín bậc. Bốn cây đèn đứng bốn góc điện. Mỗi cây đèn có chín cái đĩa đèn xòe ra, cháy rực làm nên bốn cây lửa. Phía trên điện là tấm màn mỏng vẽ sao trời chấp chới, trăng chiếu đỉnh đầu. Phía dưới điện cây thành hàng trĩu quả, sóc, khỉ truyền cành, rắn sưởi nắng trên bãi cỏ. Đường lên điện rồng chầu, hổ phục oai nghiêm. Nền điện được dát vàng, dát bạc, trên nhìn xuống như mặt hồ buổi sớm. Góc phải của thánh đường là cửa vào địa ngục. Trước cửa địa ngục gươm, đao, giáo mác tua tủa. Trong địa ngục vạc dầu sôi sùng sục, cùm gông chất đống, dây thừng treo lủng lẳng, từng bầy quỷ sứ đang diễu võ dương oai.
Trong âm u của giời đất, u mê của vòng vây núi rừng, luật tục, cứu cánh của con người là ma lành, sợ  hãi của con người là ma ác. Ma ác, ma lành có mặt khắp nơi, khắp chố, ở đâu có niềm vui, có khát khao, ở đó có ma lành, ma ác. Ma lành có mặt khi sự sung sướng trụ lại trong người đàn bà trong tuổi sinh nở. Ma lành tụ lại trong mùa màng, chui sâu vào chốn  hội hè đông đúc. Ma lành trú ngụ trong gốc cây, ngọn cỏ, trên bàn thờ, trong bếp lửa để phù hộ con người. Song hành cùng ma lành là ma ác. Ma ác len vào trong giấc ngủ. Ma ác canh cánh trong đầu. Ma ác nằm trong xó nhà rình rập sự sơ ý, báng bổ của con người. Ma ác lảng vảng khắp những nơi hoang vắng, hiểm nguy, trú ngụ trong những con thú dữ, thú đội lốt người, chỉ một chút rủi ro thôi là ma ác tỏ rõ quyền uy, là làm cho con người sống dở chết dở... 
Bàn thờ Bàn Vương trang nghiêm như trong buổi chầu của Hoàng đế. Ba bộ tranh Khổng Tử, Lềnh Phú và mười một vị thần Tam thanh - cẩm nang của ba ông thầy xử án ma quỷ, lấy lại trong sạch cho bàn thờ tổ tiên đã được treo dưới bàn thờ.
Mọi người hồi hộp, thành kính, danh sách mời các vua quan, thánh thần về dự lễ cấp sắc sắp đặt theo nghi lễ của triều đình đã sẵn sàng.
“Xưa nay hổ cậy thần rừng/ Thần rừng cậy hổ cho lừng tiếng thiêng/ Gặp thời thần thánh chung chiêng/ Oai danh ông hổ liêng biêng cuối giời”. Câu khích tướng của thầy cả đã động đến oai danh thánh thần. Nhụt Lùng – vị thần mặt trời đang mải say sưa leo trèo giật mình vén mây, gạt gió. Thần núi, thần thổ địa đang mải mê cùng các cung nữ giật mình ngừng trò. Thần gió đang tấu lên bài ca tiêu giao cùng giời đất bỗng ngừng bặt... Thần nào thần nấy giật mình nhìn xuống. Trên bàn thờ nhà họ Triệu gà mái đang ấp bóng, giữa lãnh địa nhà họ Triệu hổ uể oải liếm mép, quỷ ba đầu mài nanh, múa vuốt, tổ tiên nhà họ Triệu, kẻ nem nép góc bàn thờ, kẻ rên xiết dưới roi dưới vọt, kẻ đầu rơi khỏi cổ...
 Bốn lần tù và mời sư phụ và vua, quan, thánh thần xuống xử tội, đánh đuổi ma quỷ của thầy cả nổi lên. Lời khấn khứa nổi lên. “....Nhà họ Triệu kính thần, nhường thánh/ Sao quỷ về phá phách không yên/ Bàn thờ tổ gà lên ấp bóng/ Dưới gầm sàn hổ liếm mép đòi ăn/ Cháu con ăn ngủ chẳng yên/ Âu lo trăm mối, phiền lo trăm bề/ Nay làm lễ đón trời đón đất/ đón gió mây thần thánh về đây/ Trước là xin hãy ra tay/ Trị ma trị quỷ giữ yên bàn thờ...”. Lời khấn làm giời đất, thánh thần bối rối. Tổ tiên họ Triệu đang chịu bao đau đớn, oan khuất, giời đất, thánh thần không thể quay lưng. Thần dân họ Triệu đã ngửa mặt kêu xin, giời đất, thánh thần không thể bịt tai, nhắm mắt. Tiếng tù và nhà giời nổi lên. Tiếng tù và các thần bốn phương đáp lại. Tiếng tù và rền rĩ nối từ Đông sang Tây, xẻ từ Nam lên Bắc. Tiếng tù và đan từ chín tầng trời xuống sâu ba tầng đất. Tiếng tù và hội tụ, lĩnh ý giời đất, thánh thần, một tiếng sét kinh hoàng làm cho bầu trời roãng ra. Những con đường làm bằng ánh sáng như sợi dây thừng loăng quăng nối từ giời xuống nhà họ Triệu như những sợi khói nhang khổng lồ. Các binh tướng, binh quân, kẻ voi, người ngựa, nét mặt phừng phừng, gươm giáo rợp trời, giáp trụ sáng loáng, tất cả rời vương cung thánh đường bám theo sợi dây thừng xuống hạ giới. Trên đường đi thánh thần gặp mây - mây dạt thành lối, gặp gió - gió mở thành đường, trăng sao mờ nhạt, cây rừng quật ngang quật ngửa. Họ bay qua rừng ma - rừng ma biến thành rừng đom đóm, bay qua rừng quỷ - rừng quỷ biến thành rừng quạ đen, bay qua sông sâu, vực thẳm - thuồng luồng ngửa bụng như cá trong ao trúng độc. Dọn đường cho họ là dọn đường của trời. Đường đi của họ là làm cho mặt đất trong sạch, làm cho không khí trong lành.
Binh tướng, binh quân đã đi qua bức tường thành dày chín nghìn lớp, đã qua cầu treo dài chín nghìn thước, lướt qua sông sâu, sóng cả, qua núi cao, vực sâu, đã biến thành một cơn gió nóng ùa vào nhà họ Triệu. Bếp lửa bừng lên. Những khuôn mặt bừng lên. Nhụt Lùng toàn thân màu lửa lượn một vòng quanh thánh đường rồi đậu xuống ngai vàng. Mười ba binh quân của người biến thành mười ba tia nắng tỏa ánh hào quang quanh ngai. Vua của người Dao đỏ, vua của đất nước, thần lửa, thần đất, thần cai quản bản làng, thần phù hộ cây cối tốt tươi, thần khai thiên lập địa, thần cai quản ma quỷ trên thế gian, sư phụ của các thầy, mười một vị thần Tam Thanh cùng với hai vị thánh Khổng Tử, Lềnh Phú vây quanh.
Tiếng tù và mời Nhụt Lùng và các vị thần nhận đủ tiền bạc, xem xét giấy tờ và xét xử, đánh đuổi ma tà nghiêm minh, phù hộ cho con cháu mạnh khoẻ, gia đình yên ấm vang lên.
 Đấng Nhụt Lùng tối cao cùng các thần tham dự xét xử phiên toà  đã sẵn sàng.
 Ban cố vấn các ngành toà án,  kiểm sát, cảnh sát đã ngồi vào vị trí giám sát.
Các vị thần kiểm sát đã lập xong cáo trạng.
Thời  buổi loạn lạc, kỷ cương phép nước rối bời nên tội phạm lắm, phải xử án nhiều nên từ các thần đến binh tướng, binh quân ai cũng vừa mệt mỏi, vừa hầm hầm tức tối.
Song án không thể không xử.
Bài luận tội của vị thần cảnh sát vang lên như sấm. Các tội thần đang hoành hành ngang ngược, bắt người ốm người phải ốm, bắt người điên người phải điên, cho mùa màng được mùa màng... vậy mà nghe  luận tội chúng phải đổi hình đổi dạng, kẻ mọc thêm đuôi, kẻ đầu rụt trong cổ, tay chân, lưỡi, mặt ngắn dần, tiếng kêu xin cất lên ai oán.
 Các binh tướng, binh quân thừa lệnh các thần dẫn ma ác, quỷ dữ phạm tội tới địa ngục. Những quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa đợi sẵn. Ma, quỷ vừa líu ríu qua cửa đã bị tóm lấy, kẻ bị cưa đôi, kẻ bị túm tóc lẳng vào vạc dầu, kẻ bị ném thẳng vào cái mồm rộng ngoác của thuồng luồng, cá sấu... Máu đổ chan hòa, đầu rơi ra, lắp vào, lại rơi tiếp, vạc dầu đầy những bộ xương ngoi ngóp...
Bầu trời trong sáng trở lại. Ma quỷ đã bị đánh đuổi, bàn thờ tổ tiên đã thiết lập lại sự bình yên, gia chủ cùng mọi người hể hả tiễn vua, quan, thánh thần, tướng quân bằng cách làm cho cả đống vàng mã, ngựa xe cháy đùng đùng. Theo ngọn khói ngựa xe, binh quân, các thần rầm rập về trời, để lại đằng sau những nụ cười hỉ hả, mãn nguyện.
*
*     *
Trong lúc ngoài nhà rền rĩ tiếng cúng điều hành xét xử ma quỷ thì ở trong buồng Triệu Tá Sắn đi đi lại lại, bụng dạ mở cờ.
 Ha ha…
- “Chúng con xin được đem chuông, gậy thần đi đón vua quan, thần thánh. Lần thứ nhất, lần thứ hai, chúng con thắp hương thơm. Khói hương nghi ngút đúng theo nghi lễ. Trước hết mời vua, các quan và thánh thần dự tiệc, nghỉ ngơi, sau đó giám sát, phù hộ chúng con, để chúng con giải quyết những công việc gia chủ giao cho...”.
 Ha ha…
Các ông Lềnh Sỉ, Lềnh Phú, Tù Tác ơi, trong tay mỗi ông có một trăm hai mươi binh quân mà uy quyền của các ông ngút trời, sạt đất. Các ông Hòi Phan, Thài Vảy, Zồng Tàn ơi, trong tay mỗi ông có ba mươi binh quân mà ông làm cho cả một tộc người cúi rạp... Tôi đã từng có trong tay cả ngàn quân. Tôi đã từng gánh vác công việc như cả ba ông đang gánh vác. Tôi đã từng có đất, có dân, đã từng ... đã từng…, vậy mà… Tôi đã lấy cái gốc để lừa người, lấy cái ngọn để sai khiến người. Mọi việc trong tay tôi đã từ không đến có. Rừng, ruộng, nương, sông, suối, chim, thú, thóc gạo đến súng ống đạn dược đã đầy trong tay tôi. Quân cán, dân chúng đã ngờm ngợp theo tôi, vậy mà cửa giời vẫn đóng, cửa đất không thông. Cái phấp phỏng, lo âu của tôi hôm nay là tiền đề của bấp bênh, của cái mất ngày mai. Tôi đã phải trắng tay, phải chui lủi như con chó đói giữa rừng. Tôi… Tôi!!! Không thể được. Luật lệ là do con người dựng lên. Tôi không làm cho nghiêng trời lệch đất như các ông thì phải làm được cái việc mà mấy ông thầy phù thủy đang mê hoặc đám dân đen kia. Tôi phải bắt rễ, phải cắm sâu, phải xới xáo cho rừng này, đất này tung hê lên rồi muốn ra sao thì ra.









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét