Đoàn Hữu Nam
ÁC NGHIỆP
Tay thanh niên tên Long nem nép lách qua cánh cửa buồng, một lúc sau hắn bớc ra, bình thản thông báo:
ÁC NGHIỆP
Chiếc xe Metxedets chở ông Hàn từ từ chui qua cổng làng, ngời ông rạo rực, châng lâng nh vừa tu xong cút rợu mạnh. Phía trong cổng đặc nghịt ngời, trẻ có, già có, nam có, phụ có, ngời ông biết, ngời ông không biết, nhng biết hay không thì đám ngời trớc mặt ông đều có chung vẻ mặt hân hoan, chờ đón, ngỡng vọng. Từng lên thác xuống ghềnh, từng hởng đủ vinh đủ nhục, nhng cho đến lúc này, lúc đờng hoàng về quê làm cái việc báo hiếu tổ tiên ông mới thấy hết cái ý nghĩa của tiền bạc. Ông nhẹ nhàng bớc ra khỏi xe. Dáng cao lớn, khoan thai, giầy đen, com lê đen, áo sơ mi trắng, cà vạt đỏ, mũi nở mọng, mắt hân hoan, nụ cời thờng trực..., từng thứ, từng thứ tôn cao vẻ đờng bệ, đợc lòng ngời của Ngời quan trọng.
Đám đông vón lại rồi rạt ra thành lối, “Đúng là quan tỉnh có khác.”, “Thì chẳng, uy lực uy dũng của cả họ dồn vào bác ấy mà lại.”, “Đúng là một ngời làm quan cả họ đợc tiếng.”, “Cũng may, sau đận cải cách bác ấy xung phong đi làm ăn mới nên ngời, ở nhà thì cũng đầu b... chấm gio.”... những tiếng thì thào nh ngọn gió nồm nam thổi qua tai làm cho ông Hàn thành ngời nhập đồng.
Mọi ngời dẫn ông Hàn về nhà ông Trởng họ, ở đó đang chuẩn bị lễ đón ông nh xã, huyện đón danh hiệu anh hùng.
Sau khi đa mắt kiểm tra một lợt, thấy thứ bậc đã yên vị ông Trởng họ cầm micrô, hắng giọng:
- Tha các vị cao niên họ Phạm cùng con cháu! Từ khi tìm đất lập họ đến nay, họ Phạm làng Đại đã trải qua bao sóng gió thăng trầm, song dẫu thăng trầm sóng gió ngời họ Phạm vẫn bòng bong quấn cọ, vẫn đức cả mả dày. “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, đợc sự đồng ý của hai bên nội ngoại, họ Phạm quyết định xây lại nhà thờ Họ, xây lại mộ Tổ. Hai việc đó, một là để báo hiếu tổ tiên, hai là có nơi đàng hoàng để con cháu xa gần có nơi quy tụ, ngỡng vọng. Bản vẽ, dự toán Họ đã thông qua. Tiền nong, công sức Họ đang bổ bán. Ba trăm triệu với một dòng họ cha đến một trăm suất đinh là quá nặng, nhng mừng cho họ ta là có chú Hàn, ngời đang làm rạng danh dòng họ Phạm đã hảo tâm về đây chung lo với Họ. Mời quan tỉnh, à quên mời chú Hàn có ý kiến với họ tộc.
Ông Hàn rng rng cảm động, ông ý tứ rút khăn thấm mồ hôi và cũng để làm làm dịu đi hng phấn rồi đứng lên nói, giọng run run:
- Kính tha các cụ, các ông các bà đôi bên nội ngoại! Là ngời con của họ Phạm xa quê, nhờ phúc ấm của tổ tiên, nhờ vun vén chăm lo của họ tộc tôi mới đợc gánh vác trọng trách của xã hội, mới có chút của ăn của để. Nay họ tộc xây nhà thờ Họ, xây mộ Tổ, do tuổi cao sức yếu, à quên do bận rộn công việc tôi không trực tiếp tham gia đợc, một trăm năm mơi triệu đồng này là tấm lòng, là ngỡng vọng của tôi hớng về cội nguồn, kính mong họ tộc nhận giúp.
Mọi ngời ồ lên, trong ruột sự ngỡng mộ, hàm ơn có nọc độc của ghen tị, rủa xả.
Ông Trởng họ đứng lên, hai bàn tay xương xẩu run run đa ra, gói giấy hồng điều chứa gần ba chục con trâu mộng vừa nằm trong lòng bàn tay thì một cơn lốc bất thần ào tới, dòng xuáy của cơn lốc cuốn tung đất cát, bàn ghế, rơm rạ làm cho mọi ngời tối tăm mặt mũi.
Cơn lốc qua nhanh nh lúc nó ào đến.
Mọi ngời hoàn hồn mở mắt, trớc họ là cảnh tợng kinh hoàng. Phông màn, bàn ghế lổng chổng. Rơm rạ, đất cát vung vãi. Ông Trởng họ đang chúi đầu vào chỗ hõm của đống rơm, còn ông Hàn co ro sau đống rạ, hai tay giơ lên trời nh cầu xin, nh che đỡ.
Mọi ngời định lôi hai ngời quan trọng ra sân thì ông Hàn xua xua tay, miệng gầm lên:
- Không xây không xớng gì hết. Tiên s chúng mày, mồ cha không khóc khóc đống mối.
Tiếng gầm không bình thờng từ miệng Ngời quan trọng làm ông Trởng họ bừng tỉnh. Tay vẫn kh kh gói tiền, ông chạy lại lay lay ông Hàn:
- Kìa chú, chú làm sao thế, chú tỉnh lại đi.
Ông Hàn vùng lên xô mạnh, làm cho tấm thân gầy guộc của ngời đứng đầu dòng tộc ngã bổ chửng. Tiếng gầm nối mạch tuôn ra:
- Nhục, nhục, nhục..., ông sẽ vặn cổ hết chúng mày, đầy chúng mày xuống địa ngục. Chúng mày phải biết thế nào là vô phúc, là tàn ác...
Dờng nh xô ngã, rủa xả cha đủ, ông Hàn lao vào bồi tiếp những quả đấm, cú đá, khiến ông Trởng họ phải co rúm ngời chống đỡ.
Đám đông con cháu họ Phạm, sau phút ngỡ ngàng lao vào lôi ông Hàn ra, ấn ông vào trong buồng khóa trái cửa lại.
Sau phút bàng hoàng, vừa hoàn hồn ông Trởng họ đã tỏ rõ uy quyền của con sói đầu đàn:
- Hai đứa ra đóng cổng lại, thằng Long y sỹ đâu?
Hai thanh niên vội vã chạy ra kéo hai cánh cổng gỗ, một thanh niên lách đám đông len vào:
- Dạ, con đây ạ!
- Mày vào xem ngay bệnh cho chú Hàn...
- Dạ... con...
- Tao bảo vào xem ngay đi!
- Ông trẻ bị bệnh tâm thần!
Thông báo của Long nh nhát búa gõ vào trí não đám đông đang nhớn nhác, ông Trởng họ xô lại nắm cổ áo Long:
- Sao? Mày bảo sao?
Long bình thản gỡ tay ông Trởng, nói nh đánh đục vào cột:
- Cháu khám kỹ rồi, một là ông trẻ bị tâm thần phân liệt, hai là bị ma làm.
- Cái gì? Tâm thần, ma làm..., tao không hiểu?
- Dễ hiểu thôi ông ạ. Tâm thần phân liệt là bệnh loạn thần, biểu hiện bằng những ý nghĩ sai lệch, kỳ dị, nói năng linh tinh, hành động vô nghĩa; còn ma làm thì cả họ, cả làng này ai cũng hiểu cả.
Mọi ngời vẫn không tin vào tai mình. Tâm thần có nghĩa là điên. Ba đời nay họ Phạm đời nào cũng có ngời mù, ngời điên, nhng sao lại rơi vào Ngời quan trọng, mạt vận rồi! Mạt vận rồi!...
Thấy họ tộc nh nắm cát gặp nớc ông Trởng rít lên:
- Đứa nào nói chú Hàn điên ông cắt lỡi. Tất cả nghe tôi nói đây, ngời điên, ngời bị ma làm, à không, ngời bị bệnh tâm thần là sợ sáng, sợ gió, sợ tiếng động, nên thằng Chung, thằng Quang lấy giấy, vải bịt hết các kẽ nẻ trong buồng rồi canh gác cẩn thận. Thằng Hùng đa chú lái xe lên thị trấn, tìm cho chú ấy một nhà nghỉ tử tế. Việc cỗ bàn cứ theo xuất đinh mà chia, coi nh cả họ vẫn hởng lộc. Già trẻ, gái trai phải bảo nhau đóng mồm đóng miệng, chuyện ô nhục này mà lọt ra ngoài là chúng nó ỉa đái lên bàn thờ họ đấy.
Tất cả xanh mắt. Tất cả răm rắp theo lệnh ông Trởng. Tiết canh lòng sốt, thịt thà, canh cơm nhanh chóng đợc chia nhỏ ra các túi ni lông, phút chốc sân, nhà ngời đứng đầu dòng họ biến thành cái chợ quê đang lúc chạy nạn.
Ông Trởng họ ngồi hoá đá trên cái sập kê cạnh gian thờ.
Từ lâu họ Phạm ở làng Đại coi ông Trởng là ngời tính toán nh thần, nhất là lúc Họ có công to việc lớn. Việc đón tiếp, lễ nghĩa, chuẩn bị cho chiều nay động thổ xây nhà thờ họ ông đã tính tới mọi tình huống, nhng việc Ngời quan trọng bị điên thì ông không ngờ tới. Không! ông Hàn không thể bị điên, việc này chỉ có ma làm, mà ma thì chỉ có từ nhà họ Hoàng. Cách đây mời hôm ông mộng thấy một con quạ đen chui từ một Tổ nhà họ Hoàng bay sang đậu trên chóp mộ Tổ nhà họ Phạm rồi cất lên những tiếng kêu ai oán, máu từ mắt quạ rỏ xuống nhuộm đen cả cỏ; một con quạ trắng chui từ mộ Tổ nhà họ Phạm bay sang mộ Tổ nhà họ Hoàng ngửa cổ kêu ba tiếng, quay quay ba vòng rồi tắt thở. Tỉnh dậy ông mời ngay sáu vị phụ lão trong họ tới họp để giải cơn ác mộng. Chòm sao “Tiểu hành tinh” đang dẫn dắt họ Phạm giải ngợc đoán xuôi rồi đi đến thống nhất: Ông Tổ nhà họ Phạm bị ông Tổ họ Hoàng khuấy đảo, mộng đã báo, việc đã rõ, nếu không ra tay nghiêm trị thì cả họ sẽ bị tuyệt diệt nh con quạ trắng trong mộng. Một pháp s cao tay tận trên tỉnh đợc họ Phạm thuê về đã bí mật chôn bùa, đóng cọc giam nhốt, bắt u hồn ông Tổ họ Hoàng sống trong tù ngục. Vậy mà...
Họ Phạm và họ Hoàng thù nhau đã đến đời thứ năm.
Cách đây hơn trăm năm, lúc đó ông nội của ông Trởng họ Phạm cùng với ông nội của ông Trởng họ Hoàng vốn cùng là kẻ mồ côi, cùng gốc một làng ở tận vùng Kinh Bắc. Trong một trận chọi gà tại hội làng, vì bị lăng mạ, chèn ép hai ngời lỡ tay đánh chết con trai của lý trởng. Vì cái án tày trời này mà hai ngời buộc phải trốn khỏi quê hơng bản quán. Biết thân phận phải bỏ làng vĩnh viễn và muốn có tổ tiên để thờ tự, trớc khi tha phơng cả hai đã đào mả bố lấy cốt mang đi. Sau mấy tháng trời trốn chui trốn lủi, cả hai dạt vào cái làng nổi giữa vùng đất “sống ngâm da, chết ngâm xơng”. Khi đợc làng coi là dân ngụ c, hai kẻ mồ côi đã cho cốt hai ông bố vào hai cái nồi hông rồi bí mật chôn trên hai quả gò. Kẻ họ Hoàng chôn bố ở quả gò gần nhà phía Nam làng, kẻ họ Phạm chôn bố ở quả gò gần nhà phía Bắc làng. Năm tháng trôi đi, kẻ trai họ Hoàng tốt số đợc làm rể nhà cụ Đồ đang kỳ phát đạt, kẻ trai họ Phạm vớ phải một cô gái tứ cố vô thân chuyên sống bằng nghề đánh dậm, đánh bơ lơ cua. Xuất phát cùng một hoàn cảnh nhng hai cuộc đời, hai số phận đẩy mỗi ngời về mỗi cực. Khoảng cách làm cho hai ngời mỗi ngày một xa, rạn nứt mỗi ngày một rộng, kẻ họ Hoàng thơng hại, coi thờng kẻ họ Phạm; kẻ họ Phạm ngờ vực kẻ họ Hoàng lừa chôn bố mình vào huyệt đất phát, chôn bố bạn vào huyệt đất lụi. Từ rạn nứt, nghi ngờ đến thù hận cách nhau có sợi tóc. Hơn một trăm năm qua, dẫu nơng thời nơng thế thế nào thì hai họ vẫn âm thầm, quyết liệt đối đầu nhau, việc cản phá họ Phạm xây nhà thờ, xây mộ Tổ hôm nay không họ Hoàng thì còn họ nào vào đây nữa.
*
* *
Uất ức, thù hận đang dày vò ông Trởng họ ở nhà ngoài thì ở trong buồng ông Hàn thấy mặt đất bị sụt xuống thành một cái hố sâu hun hút. Ông đang ngơ ngác thì hai tên đầu trâu mặt ngựa từ dới hố vụt lên kéo tụt xuống hố. Chúng kéo ông rơi, rơi mãi trong thăm thẳm mịt mùng, trong ma bay, gió buốt. Những ánh lửa lạnh lập lòe bay ngang, bay dọc, cản đờng, tránh đờng khiến cho định hình, cảm giác trớc ông, trong ôngcứ nhòe nhoẹt, chơi vơi, xa lạ.
Ông Hàn vừa nhận biết đợc mặt đất nhớp nháp thì một lực vô hình hút ông theo hai tên đầu trâu mặt ngựa. Trong kèm mà không kèm, trong hoang tàn, chập chờn, mông lung, vô cùng vô tận ông châng lâng, nửa chạy nửa bay. Chạy, bay trong câm lặng, trong mụ mẫm, cuốn hút. Hai bàn chân ông vừa chạm vào mặt đất ớt át, lạnh lẽo đã bật lên, bay vèo nh con châu chấu kềnh bị đuổi. Trớc ông những con vật chó chẳng ra chó, hổ chẳng ra hổ nhe nanh, trợn mắt chắn đờng. Bên tay phải những nạn nhân đang bị hàng đàn chim sắt từ chín tầng trời lao xuống rỉa mổ. Bên tay trái một lũ quỷ sứ đầu trâu đuôinh chùm đinh ba, mắt nh lò lửa đang ra sức thiêu đốt, quăng quật đám ngời đã nhầu nát thịt da. Rồi hàng dãy vạc dầu, lò than sùng sục, rừng rực. Rồi bánh xe dao. Rồi sông băng buốt giá... Tất cả diễn ra trong lạnh lùng, mù mịt. Tất cả diễn ra trong rên xiết, đau đớn. Tất cả khuấy đảo thị giác, khuấy đảo trí não làm cho ông rùng mình, gai lạnh...
Ông Hàn đợc điệu vào một cung điện đầy âm khí. Trong cung điện, từ sân điện dẫn lên ngai vàng là hai hàng gơm giáo sáng lòa, ngồi trên ngai vàng là một vị từ mũ mãng, quần áo đến nớc da, khuôn mặt đều nh thửa bằng sắt. Cha biết phải ứng xử ra sao thì một tên đầu trâu mặt ngựa sỗ sàng ấn dúi đầu ông xuống, quát lên:
- Trớc Diêm vơng mà ngơi không chịu quỳ lạy, muốn róc thịt lột da hả?
“Thì ra kia là Diên vơng” - Ông Hàn nghĩ nhanh rồi sụp lạy.
Diêm vơng tỏ vẻ hài lòng, hỏi:
- Ngơi có biết ngơi vừa đi qua nơi nào không?
- Dạ, tôi cha biết, hình nh là... là...
- Thì ra cha ai dạy cho ngơi biết thế nào là địa ngục, vậy tận mắt chứng kiến những hình phạt dới cõi âm ngơi có thấy sợ không?
Câu hỏi xóc ngang của Diêm vơng làm cho tính bớng bỉnh thờng trực trong ông Hàn bùng lên. Bao năm qua học hành, quăng quật đã đuổi hết thiên đàng địa ngục, ma quỷ, hèn nhát khỏi ngời, đế quốc sài lang ông còn không sợ sợ gì địa ngục. Ông lắc đầu:
- Tôi không sợ. Chết là cùng chứ gì!
- Khá khen cho sự cứng cỏi của nhà ngơi. Vậy nhà ngơi có biết tại sao bị điệu xuống địa ngục không?
- Tôi không biết. Không cần biết. Sống trên thế gian tôi luôn hết lòng vì ngời, vì mình, tội cha đến lần, lỗi cha đến phạt, tôi bị điệu xuống đây là vô lý.
Diêm vơng cời vang. Cời đã ông rời ngai vàng xuống chỗ ông Hàn nhỏ nhẹ:
- Quả là ngơi cha biết tội thật. Nhng ta cũng không trách ngơi, ngơi, cả họ nhà ngơi bao năm nay chìm đắm trong vô minh thì làm sao mà thấu tội đợc.
- Nhng... nhng...
- Ta biết bàn tay nhúng tội của ngơi đã đợc ăn năn hối cải rửa kỹ, nhng bao năm qua họ tộc ngơi đã gây ra bao ác nghiệp ngơi có biết không?
- Dạ..., có cái biết, có cái không...
- Ta biết. Lâu nay ngơi cố trốn tránh ác nghiệp, nhng họ tộc nhà ngơi càng lúc càng lún ngơi không nên tránh?
- Dạ, cái đó thì....
- Biết mà cố tình không ngộ ra cũng coi là tội. Họ tộc nhà ngơi bao năm nay đắm chìm trong thù hận nên không chỉ hại ngời mà còn hại mình ngơi không biết thật không?
- Dạ, quả tình tôi không hiểu!...
- Vậy thì ta phải trả ngơi về dơng thế để ngơi mở mắt mở lòng.
- Nhng tôi...
Ông Hàn cha kịp hết câu thì Diêm Vơng đã phẩy tay, đi nhanh lên ngai, một làn gió lạnh ào đến bốc ông lên khỏi địa ngục, ném bịch xuống chiếc giờng nhà ông Trởng họ khiến ông phải hét lên: “Các ngời không đợc đối xử với tôi nh thế. Không đợc... đợc...”.
*
* *
Trên cái sập cạnh gian thờ, chòm sao “Tiểu hành tinh” họ Phạm đang say sa với chuyện xây mộ Tổ thì bị tiếng hét lạc giọng của ông Hàn phá vỡ. Cả bẩy vội vàng vào buồng bật điện, lay gọi, lôi ông ra khỏi bên mê.
Nhìn các vị trởng lão lo lắng vây quanh, ông Hàn vừa rng rng vừa bâng khuâng nuối tiếc. Ông thều thào:
- Em đã không nên không phải với họ tộc lắm phải không?
Thấy ông Hàn tỉnh táo, ông Trởng họ mừng rỡ:
- Không sao, không sao, chú tỉnh lại thế này là tốt lắm rồi.
- Vậy việc xây nhà thờ họ...
- Chú cứ yên tâm. Trong lúc chú không may bị cảm gió họ tộc đã mạn phép tiến hành nh dự định. Cuối giờ Mùi đã làm xong thủ tục rắc móng, chúng tôi đang định ra xem thợ thuyền làm thế nào đây.
Ông Hàn vục dậy:
- Vậy các bác cho em ra với!
Ông Trởng họ ấn ông Hàn ấn xuống giờng:
- Không đợc, chú đang ơn ngời, ra đó phải lại gió máy là không chữa đợc đâu.
Cùng với ông Trởng, chòm sao “Tiểu hành tinh” mỗi ngời góp một câu khiến ông Hàn không cỡng đợc, đành phải làm đứa trẻ lên năm.
*
* *
Ông Hàn đang vừa húp bát cháo gạo nếp nấu với linh chi vừa miên man chắp nối lại chuyến đi xuống địa ngục thì một bóng ngời lụt cụt đi vào dựng dậy khiến ông luống cuống lùi vào góc giờng, hét lên:
- Ông là ai?
- Ta là ngời của ác nghiệp đây, ta đến đây để cho ngơi biết thế nào là oan khuất, là ác giả ác báo – Bóng ma trả lời đĩnh đạc.
- Nhng oan có đầu, nợ có chủ, tôi đã làm gì đến ông mà ông tìm tôi đòi nợ - Ông Hàn bớng bỉnh cãi.
- Ngơi không nợ ta nhng họ nhà ngơi nợ ta. Họ nhà ngơi đã ba đời có ngời bị mù, bị điên rồi ngơi có biết không?
- Thì ra là thế - Ông Hàn nghiến răng trợn mắt nh muốn ăn tơi nuốt sống bóng ma – Thì ra là ngơi, ngơi đã...
- Ta có làm gì thì cũng từ nghiệp chớng mà nên thôi!
Ông Hàn vẫn nỗ khi ngút trời:
- Ông không đợc nói càn, nghiệp chớng nghiệp giời gì thì cũng không đợc phép làm cho ngời khác thân tàn ma dại.
Có lẽ thấy giận dữ của ông Hàn có lý, cái bóng rũ xuống, nức lên:
- Bao ác nghiệp trên đời đều khởi nguồn từ tham sân si cả, ngơi không biết sự u mê, ác độc của các ngơi đã làm ta khổ ta đến thế nào đâu.
Sự chuyển đổi quá nhanh của cái bóng làm ông Hàn nhũn ngời, ông hỏi:
- Vậy ông là ai? Tôi đã làm gì hại đến ông?...
- Ngơi cha hại đến ta, nhng họ nhà ngơi làm ta khổ quá rồi.
- Họ nhà tôi?
- Đúng, họ nhà ngơi. Gần một trăm năm nay ta không biết thế nào là mặt trời, mặt trăng, thế nào là yên thân là vì lũ con cháu họ Phạm đấy.
- Vậy tôi..., tôi phải làm gì giúp ông?
- Làm gì ! Ta đang cần kẻ thiện tâm, có sau có trớc giúp đỡ, nếu ngơi thành tâm thành ý thì theo ta ra chỗ mộ Tổ họ Hoàng.
Ông Hàn định hỏi cho ra nhẽ thì cái bóng biến thành một một chấm đen vút qua khe cửa.
“Trả ngơi về dơng thế để ngơi mở mắt mở lòng” – Câu nói của Diêm vơng văng vẳng bên tai;
“Quay đầu là bờ” – Răn dạy của ai đó lớt nhanh trong óc;
Tò mò, khát khao nhập một khiến ngời ngợm rộn rã nh đang lên đồng;
Ông Hàn ra mở cửa, tránh đám con cháu đang lúi húi làm bếp, lụt cụt ra ngõ. Ông vừa ra tới cánh đồng thì một cơn gió lạnh ào tới, ông mặt trời đang thả phanh xuống dốc liền bị những núi mây đen ùn ùn nuốt chửng khiến bóng đen trùm lấp vạn vật. “Cản cũng đi, Đi B bom đạn ác liệt thế ông còn đi chẳng là bây giờ” - Ông nghiến răng nhằm hớng gò tha ma phía Nam làng mò mẫm.
Nhận biết đợc núm đất nhô cao chính là ngôi mộ Tổ họ Hoàng, ông Hàn hít một hơi dài, nhắm mắt tĩnh trí. Khi ông mở mắt gió đã đánh tan mây tự lúc nào, bầu trời cao rộng, lạnh lẽo, ánh sáng lạnh từ trăng sao soi xuống khiến mọi vật thật nh ban ngày. Dới chân ông hằng hà sa số con bọ hung đội từ lòng mộ lên một chiếc nồi hông xám đen. Ông tò mò lại gần, nhìn kỹ. Xơng cốt lổn nhổn trong bầy nhầy cùng mùi xú uế lu cữu bốc lên nồng nặc cho ông biết ngời nằm trong nồi hông từ lâu bị chôn vùi trong bẩn tởi. Ông hết nhìn cái nồi hông xơng lại nhìn ra bờ mơng, lời khẩn cầu và cũng là mệnh lệnh của bóng ma tìm tai ông thì thầm, lay gọi. “Xơng cốt của ai cũng cần phải sạch sẽ, ta hãy thêm một lần ra tay làm phúc” - ông Hàn lẩm bẩm rồi lấy hết can đảm bê chiếc nồi hông ra bờ mơng, ngồi tỉ mẩn rửa kỹ từng chiếc xơng.
Làm xong cái việc của ngời bốc mộ, ông Hàn thấy ngời nhẹ nhõm, dễ chịu. Quanh ông không khí mát mẻ, yên bình, mùi xú uế đợc thay bằng mùi hoa dạ lan đậm đặc, tiếng gió u u than vãn bỗng nh vuốt ve, nh tiếng sáo, những đốm lân tinh vây bọc vụt sáng vụt tắt bỗng lấp lánh nh những ánh mắt long lanh. Ông hào hứng bê ngời thiên cổ trả về vị trí cũ. Lạ thay, chân ông vừa chạm chỗ đất bọ hung đùn thì nồi hông xơng buột khỏi tay chui tuột xuống đất đen, ông cha hết bàng hoàng thì đâu đó một giọng trầm trầm cất lên:
- Cám ơn con, nhờ con mà ngứa ngáy khó chịu trong ta đã bớt đi phần nào.
- Dạ, tôi làm việc nên làm thôi.
-Vậy con có biết ta là ai không?
- Dạ, không phải cụ là ngời nằm trong mộ, là ông Tổ họ Hoàng ở làng Đại sao?
- Lầm. Quá lầm. Ta chính là Phạm Văn Vòng, là cụ Tổ của con đây.
Nh tiếng sét xẹt qua tai, ông Hàn sụp xuống vái lia lịa:
- Con cắn rơm cắn cỏ lạy cụ! Trăm lạy vạn lạy cụ...
- Con ngẩng lên đi, ta không trách tội con nhng ta oán lũ con cháu vô minh không biết rắp tâm hại ngời là đào mồ chôn chính mình.
- Dạ tha cụ, cụ dạy gì con không hiểu?
- Chuyện dài lắm con ạ! Nhng dài thì ta cũng phải kể con nghe. Con biết không! Sau khi thoát khỏi bụi trần ta đang gom ân tích đức thì bị cụ con cho vào tay nải mang đi. Cha theo con là phải lẽ nên ta không mảy may oán thán, nhng trớ trêu thay, lập nghiệp đợc ở làng Đại một thời gian thì tham lam, u tối đã làm cho cụ con loạn tâm loạn tính, làm cho họ Phạm, họ Hoàng vốn là bạn với nhau thành hai con hổ chung chuồng. Oán thù đờng trần cha chán, cụ con còn theo đờng ma lối hiểm đào xơng cốt của ta chôn vào huyệt mộ họ Hoàng, lấy xơng cốt của họ Hoàng chôn vào huyệt mộ của ta. Nhát kiếm của thần Sét đã bắt kẻ làm cái việc giời không dung ấy ra đi trong tức tởi và cũng mang luôn cái bí mật đổi mộ xuống mồ. Kể từ đó dới cõi âm ta và ngời bạn họ Hoàng trở thành ma đói ma khát, trên cõi trần có con có cháu cũng nh không. Không chỉ có vậy, mỗi khi họ Phạm trả thù họ Hoàng là ta lại ăn đủ cực nhục. Cả chục cái cọc bùa chú đã đóng lên mộ ta. Biết bao cứt đát đã tới lên xơng cốt ta. Trong nghiệp báo, có báo ứng trả nợ cho đời trớc, có báo ứng trả nợ cho muôn lợng kiếp, có báo ứng trả ngay sau việc làm thiện ác. Ta đã cảnh báo, đã báo ứng nhiều lần nhng tăm tối vẫn hoàn tăm tối...
- Dạ tha cụ, xin cụ mở lợng hải hà mà thơng con thơng cháu.
- Ta thơng các ngơi nhng ai thơng ta. Ta biết ta càng quả báo con cháu thì tội ta càng đầy lên, nhng thân ta đã làm gì để phải chịu cảnh đọa đầy? Hồn đã hại ai mà phải chịu cảnh giam hãm? Ta đã làm gì? Làm gì???...
Tiếng cụ Tổ bỗng rít lên nh gió giật làm ông Hàn sợ hãi bng tai, bịt mắt, đầu óc quay cuồng nh trúng gió.
*
* *
Sẩm tối, chòm sao “Tiểu hành tinh” họ Phạm cùng con cháu từ chỗ xây nhà thờ hể hả kéo về nhà ông Trởng họ. Thấy căn buồng ông Hàn nghỉ trống trơn mọi ngời tá hỏa lên, cả họ nháo nhác lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm, cuối cùng họ tìm thấy Ngời quan trọng đang ôm ngôi mộ Tổ nhà họ Hoàng khóc nức nở. Mọi ngời bừng bừng lửa giận, sau cái ghé tai của ông Trởng họ một lát sau mấy thanh niên xách mấy xô cứt đái chạy đến. Vừa ngửi thấy mùi hôi thối ông Hàn đã hoảng sợ. Vừa lồng lộn quanh ngôi mộ ông vừa gào lên:
- Đừng làm thế, đừng làm thế, tôi xin các ngời, dới mộ này là xơng cốt cụ Tổ họ Phạm đấy các ngời ơi!
Tiếng gào của ông Hàn không những không cản đợc những xô cứt đái tới lên ngôi mộ mà ông còn bị điệu lên xe máy chở thẳng ra phố huyện. “Để chú lái xe và thằng Long chở chú ấy về Hà Nội chạy chữa.” - Ông Trởng họ phân bua với mọi ngời, nhng mọi ngời đâu biết ông đã nói nhỏ với Long: “Mày phải cùng thằng lái xe áp giải ông trẻ lên tận nhà trên mạn ngợc, ông trẻ mà quay lại cả họ không gánh nổi tội đâu”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét