Thứ Sáu, 24 tháng 2, 2012

Ác nghiệp - truyên ngắn

        Đoàn Hữu Nam                                        


                                                            ÁC NGHIỆP
Chiếc xe Metxedets chở ông Hàn từ từ chui qua cổng làng, ng­ời ông rạo rực, châng lâng nh­ vừa tu xong cút r­ợu mạnh. Phía trong cổng đặc nghịt ng­ời, trẻ có, già có, nam có, phụ có, ng­ời ông biết, ng­ời ông không biết, nh­ng biết hay không thì đám ng­ời tr­ớc mặt ông đều có chung vẻ mặt hân hoan, chờ đón, ng­ỡng vọng. Từng lên thác xuống ghềnh, từng h­ởng đủ vinh đủ nhục, nh­ng cho đến lúc này, lúc đ­ờng hoàng về quê làm cái việc báo hiếu tổ tiên ông mới thấy hết cái ý nghĩa của tiền bạc. Ông nhẹ nhàng b­ớc ra khỏi xe. Dáng cao lớn, khoan thai, giầy đen, com lê đen, áo sơ mi trắng, cà vạt đỏ, mũi nở mọng, mắt hân hoan, nụ c­ời th­ờng trực..., từng thứ, từng thứ tôn cao vẻ đ­ờng bệ, đ­ợc lòng ng­ời của Ng­ời quan trọng.


Đám đông vón lại rồi rạt ra thành lối, “Đúng là quan tỉnh có khác.”, “Thì chẳng, uy lực uy dũng của cả họ dồn vào bác ấy mà lại.”, “Đúng là một ng­ời làm quan cả họ đ­ợc tiếng.”, “Cũng may, sau đận cải cách bác ấy xung phong đi làm ăn mới nên ng­ời, ở nhà thì cũng đầu b... chấm gio.”...  những tiếng thì thào nh­ ngọn gió nồm nam thổi qua tai làm cho ông Hàn thành ng­ời nhập đồng.
Mọi ng­ời dẫn ông Hàn về nhà ông Tr­ởng họ, ở đó đang chuẩn bị lễ đón ông nh­ xã, huyện đón danh hiệu anh hùng.
Sau khi đ­a mắt kiểm tra một l­ợt, thấy thứ bậc đã yên vị ông Tr­ởng họ cầm micrô, hắng giọng:
- Th­a các vị cao niên họ Phạm cùng con cháu! Từ khi tìm đất lập họ đến nay, họ Phạm làng Đại đã trải qua bao sóng gió thăng trầm, song dẫu thăng trầm sóng gió ng­ời họ Phạm vẫn bòng bong quấn cọ, vẫn đức cả mả dày. “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, đ­ợc sự đồng ý của hai bên nội ngoại, họ Phạm quyết định xây lại nhà thờ Họ, xây lại mộ Tổ. Hai việc đó, một là để báo hiếu tổ tiên, hai là có nơi đàng hoàng để con cháu xa gần có nơi quy tụ, ng­ỡng vọng. Bản vẽ, dự toán Họ đã thông qua. Tiền nong, công sức Họ đang bổ bán. Ba trăm triệu với một dòng họ ch­a đến một trăm suất đinh là quá nặng, nh­ng mừng cho họ ta là có chú Hàn, ng­ời đang làm rạng danh dòng họ Phạm đã hảo tâm về đây chung lo với Họ. Mời quan tỉnh, à quên mời chú Hàn có ý kiến với họ tộc. 
Ông Hàn r­ng r­ng cảm động, ông ý tứ rút khăn thấm mồ hôi và cũng để làm làm dịu đi h­ng phấn rồi đứng lên nói, giọng run run:
- Kính th­a các cụ, các ông các bà đôi bên nội ngoại! Là ng­ời con của họ Phạm xa quê, nhờ phúc ấm của tổ tiên, nhờ vun vén chăm lo của họ tộc tôi mới đ­ợc gánh vác trọng trách của xã hội, mới có chút của ăn của để. Nay họ tộc  xây nhà thờ Họ, xây mộ Tổ, do tuổi cao sức yếu, à quên do bận rộn công việc tôi không trực tiếp tham gia đ­ợc, một trăm năm m­ơi triệu đồng này là tấm lòng, là ng­ỡng vọng của tôi h­ớng về cội nguồn, kính mong họ tộc nhận giúp.
Mọi ng­ời ồ lên, trong ruột sự ng­ỡng mộ, hàm ơn có nọc độc của ghen tị, rủa xả.
Ông Tr­ởng họ đứng lên, hai bàn tay xương xẩu run run đ­a ra, gói giấy hồng điều chứa gần ba chục con trâu mộng vừa nằm trong lòng bàn tay thì một cơn lốc bất thần ào tới, dòng xuáy của cơn lốc cuốn tung đất cát, bàn ghế, rơm rạ làm cho mọi ng­ời tối tăm mặt mũi.
Cơn lốc qua nhanh nh­ lúc nó ào đến.
Mọi ng­ời hoàn hồn mở mắt, tr­ớc họ là cảnh t­ợng kinh hoàng. Phông màn, bàn ghế lổng chổng. Rơm rạ, đất cát vung vãi. Ông Tr­ởng họ đang chúi đầu vào chỗ hõm của đống rơm, còn ông Hàn co ro sau đống rạ, hai tay giơ lên trời nh­ cầu xin, nh­ che đỡ.
Mọi ng­ời định lôi hai ng­ời quan trọng ra sân thì ông Hàn xua xua tay, miệng gầm lên:
- Không xây không x­ớng gì hết. Tiên s­ chúng mày, mồ cha không khóc khóc đống mối. 
Tiếng gầm không bình th­ờng từ miệng Ng­ời quan trọng làm ông Tr­ởng họ bừng tỉnh. Tay vẫn kh­ kh­ gói tiền, ông chạy lại lay lay ông Hàn:
- Kìa chú, chú làm sao thế, chú tỉnh lại đi.
Ông Hàn vùng lên xô mạnh, làm cho tấm thân gầy guộc của ng­ời đứng đầu dòng tộc ngã bổ chửng. Tiếng gầm nối mạch tuôn ra:
- Nhục, nhục, nhục..., ông sẽ vặn cổ hết chúng mày, đầy chúng mày xuống địa ngục. Chúng mày phải biết thế nào là vô phúc, là tàn ác...
D­ờng nh­ xô ngã, rủa xả ch­a đủ, ông Hàn lao vào bồi tiếp những quả đấm, cú đá, khiến ông Tr­ởng họ phải co rúm ng­ời chống đỡ.
Đám đông con cháu họ Phạm, sau phút ngỡ ngàng lao vào lôi ông Hàn ra, ấn ông vào trong buồng khóa trái cửa lại.
 Sau phút bàng hoàng, vừa hoàn hồn ông Tr­ởng họ đã tỏ rõ uy quyền của con sói đầu đàn:
- Hai đứa ra đóng cổng lại, thằng Long y sỹ đâu?
Hai thanh niên vội vã chạy ra kéo hai cánh cổng gỗ, một thanh niên lách đám đông len vào:
- Dạ, con đây ạ!
- Mày vào xem ngay bệnh cho chú Hàn...
- Dạ... con...
- Tao bảo vào xem ngay đi!
Tay thanh niên tên Long nem nép lách qua cánh cửa buồng, một lúc sau hắn b­ớc ra, bình thản thông báo:
 - Ông trẻ bị bệnh tâm thần!
 Thông báo của Long nh­ nhát búa gõ vào trí não đám đông đang nhớn nhác, ông Tr­ởng họ xô lại nắm cổ áo Long:
- Sao? Mày bảo sao?
Long bình thản gỡ tay ông Tr­ởng, nói nh­ đánh đục vào cột:
- Cháu khám kỹ rồi, một là ông trẻ bị tâm thần phân liệt, hai là bị ma làm.
- Cái gì? Tâm thần, ma làm..., tao không hiểu?
- Dễ hiểu thôi ông ạ. Tâm thần phân liệt là bệnh loạn thần, biểu hiện bằng những ý nghĩ sai lệch, kỳ dị, nói năng linh tinh, hành động vô nghĩa; còn ma làm thì cả họ, cả làng này ai cũng hiểu cả.
Mọi ng­ời vẫn không tin vào tai mình. Tâm thần có nghĩa là điên. Ba đời nay họ Phạm đời nào cũng có ng­ời mù, ng­ời điên, nh­ng sao lại rơi vào Ng­ời quan trọng, mạt vận rồi! Mạt vận rồi!...
Thấy họ tộc nh­ nắm cát gặp n­ớc ông Tr­ởng rít lên:
- Đứa nào nói chú Hàn điên ông cắt l­ỡi. Tất cả nghe tôi nói đây, ng­ời điên, ng­ời bị ma làm, à không, ng­ời bị bệnh tâm thần là sợ sáng, sợ gió, sợ tiếng động, nên thằng Chung, thằng Quang lấy giấy, vải bịt hết các kẽ nẻ trong buồng rồi canh gác cẩn thận. Thằng Hùng đ­a chú lái xe lên thị trấn, tìm cho chú ấy một nhà nghỉ tử tế. Việc cỗ bàn cứ theo xuất đinh mà chia, coi nh­ cả họ vẫn h­ởng lộc. Già trẻ, gái trai phải bảo nhau đóng mồm đóng miệng, chuyện ô nhục này mà lọt ra ngoài là chúng nó ỉa đái lên bàn thờ họ đấy.
 Tất cả xanh mắt. Tất cả răm rắp theo lệnh ông Tr­ởng. Tiết canh lòng sốt, thịt thà, canh cơm nhanh chóng đ­ợc chia nhỏ ra các túi ni lông, phút chốc sân, nhà ng­ời đứng đầu dòng họ biến thành cái chợ quê đang lúc chạy nạn.
Ông Tr­ởng họ ngồi hoá đá trên cái sập kê cạnh gian thờ.
Từ lâu họ Phạm ở làng Đại coi ông Tr­ởng là ng­ời tính toán nh­ thần, nhất là lúc Họ có công to việc lớn. Việc đón tiếp, lễ nghĩa, chuẩn bị cho chiều nay động thổ xây nhà thờ họ ông đã tính tới mọi tình huống, nh­ng việc Ng­ời quan trọng bị điên thì ông không ngờ tới. Không! ông Hàn không thể bị điên, việc này chỉ có ma làm, mà ma thì chỉ có từ nhà họ Hoàng. Cách đây m­ời hôm ông mộng thấy một con quạ đen chui từ một Tổ nhà họ Hoàng bay sang đậu trên chóp mộ Tổ nhà họ Phạm rồi cất lên những tiếng kêu ai oán, máu từ mắt quạ rỏ xuống nhuộm đen cả cỏ; một con quạ trắng chui từ mộ Tổ nhà họ Phạm bay sang mộ Tổ nhà họ Hoàng ngửa cổ kêu ba tiếng, quay quay ba vòng rồi tắt thở. Tỉnh dậy ông mời ngay sáu vị phụ lão trong họ tới họp để giải cơn ác mộng. Chòm sao “Tiểu hành tinh” đang dẫn dắt họ Phạm giải ng­ợc đoán xuôi rồi đi đến thống nhất: Ông Tổ nhà họ Phạm bị ông Tổ họ Hoàng khuấy đảo, mộng đã báo, việc đã rõ, nếu không ra tay nghiêm trị thì cả họ sẽ bị tuyệt diệt nh­ con quạ trắng trong mộng. Một pháp s­ cao tay tận trên tỉnh đ­ợc họ Phạm thuê về  đã bí mật chôn bùa, đóng cọc giam nhốt, bắt u hồn ông Tổ họ Hoàng sống trong  tù ngục. Vậy mà...
Họ Phạm và họ Hoàng thù nhau đã đến đời thứ năm.
  Cách đây hơn trăm năm, lúc đó ông nội của ông Tr­ởng họ Phạm cùng với ông nội của ông Tr­ởng họ Hoàng vốn cùng là kẻ mồ côi, cùng gốc một làng ở tận vùng Kinh Bắc. Trong một trận chọi gà tại hội làng, vì bị lăng mạ, chèn ép hai ng­ời lỡ tay đánh chết con trai của lý tr­ởng. Vì cái án tày trời này mà hai ng­ời buộc phải trốn khỏi quê h­ơng bản quán. Biết thân phận phải bỏ làng vĩnh viễn và muốn có tổ tiên để thờ tự, tr­ớc khi tha ph­ơng cả hai đã đào mả bố lấy cốt mang đi. Sau mấy tháng trời trốn chui trốn lủi, cả hai dạt vào cái làng nổi giữa vùng đất “sống ngâm da, chết ngâm x­ơng”. Khi đ­ợc làng coi là dân ngụ c­, hai kẻ mồ côi đã cho cốt hai ông bố vào hai cái nồi hông rồi bí mật chôn trên hai quả gò. Kẻ họ Hoàng chôn bố ở quả gò gần nhà phía Nam làng, kẻ họ Phạm chôn bố ở quả gò gần nhà phía Bắc làng. Năm tháng trôi đi, kẻ trai họ Hoàng tốt số đ­ợc làm rể nhà cụ Đồ đang kỳ phát đạt, kẻ trai họ Phạm vớ phải một cô gái tứ cố vô thân chuyên sống bằng nghề đánh dậm, đánh bơ lơ cua. Xuất phát cùng một hoàn cảnh nh­ng hai cuộc đời, hai số phận đẩy mỗi ng­ời về mỗi cực. Khoảng cách làm cho hai ng­ời mỗi ngày một xa, rạn nứt mỗi ngày một rộng, kẻ họ Hoàng th­ơng hại, coi th­ờng kẻ họ Phạm; kẻ họ Phạm ngờ vực kẻ họ Hoàng lừa chôn bố mình vào huyệt đất phát, chôn bố bạn vào huyệt đất lụi. Từ rạn nứt, nghi ngờ đến thù hận cách nhau có sợi tóc. Hơn một trăm năm qua, dẫu n­ơng thời n­ơng thế thế nào thì hai họ vẫn âm thầm, quyết liệt đối đầu nhau, việc cản phá họ Phạm xây nhà thờ, xây mộ Tổ hôm nay không họ Hoàng thì còn họ nào vào đây nữa.
*
*     *
Uất ức, thù hận đang dày vò ông Tr­ởng họ ở nhà ngoài thì ở trong buồng ông Hàn thấy mặt đất bị sụt xuống thành một cái hố sâu hun hút. Ông đang ngơ ngác thì hai tên đầu trâu mặt ngựa từ d­ới hố vụt lên kéo tụt xuống hố. Chúng kéo ông rơi, rơi mãi trong thăm thẳm mịt mùng, trong m­a bay, gió buốt. Những ánh lửa lạnh lập lòe bay ngang, bay dọc, cản đ­ờng, tránh đ­ờng khiến cho định hình, cảm giác tr­ớc ông, trong ôngcứ nhòe nhoẹt, chơi vơi, xa lạ.
Ông Hàn vừa nhận biết đ­ợc mặt đất nhớp nháp thì một lực vô hình hút ông theo hai tên đầu trâu mặt ngựa. Trong kèm mà không kèm, trong hoang tàn, chập chờn, mông lung, vô cùng vô tận ông châng lâng, nửa chạy nửa bay. Chạy, bay trong câm lặng, trong mụ mẫm, cuốn hút. Hai bàn chân ông vừa chạm vào mặt đất ­ớt át, lạnh lẽo đã bật lên, bay vèo nh­ con châu chấu kềnh bị đuổi. Tr­ớc ông những con vật chó chẳng ra chó, hổ chẳng ra hổ nhe nanh, trợn mắt chắn đ­ờng. Bên tay phải những nạn nhân đang bị hàng đàn chim sắt từ chín tầng trời lao xuống rỉa mổ. Bên tay trái một lũ quỷ sứ đầu trâu đuôinh­ chùm đinh ba, mắt nh­ lò lửa đang ra sức thiêu đốt, quăng quật đám ng­ời đã nhầu nát thịt da. Rồi hàng dãy vạc dầu, lò than sùng sục, rừng rực. Rồi bánh xe dao. Rồi sông băng buốt giá... Tất cả diễn ra trong lạnh lùng, mù mịt. Tất cả diễn ra trong rên xiết, đau đớn. Tất cả khuấy đảo thị giác, khuấy đảo trí não làm cho ông rùng mình, gai lạnh...
Ông Hàn đ­ợc điệu vào một cung điện đầy âm khí. Trong cung điện, từ sân điện dẫn lên ngai vàng là hai hàng g­ơm giáo sáng lòa, ngồi trên ngai vàng là một vị từ mũ mãng, quần áo đến n­ớc da, khuôn mặt đều nh­ thửa bằng sắt. Ch­a biết phải ứng xử ra sao thì một tên đầu trâu mặt ngựa sỗ sàng ấn dúi đầu ông xuống, quát lên:
- Tr­ớc Diêm v­ơng mà ng­ơi không chịu quỳ lạy, muốn róc thịt lột da hả?
“Thì ra kia là Diên v­ơng” - Ông Hàn nghĩ nhanh rồi sụp lạy.
Diêm v­ơng tỏ vẻ hài lòng, hỏi:
- Ng­ơi có biết ng­ơi vừa đi qua nơi nào không?
- Dạ, tôi ch­a biết, hình nh­ là... là...
- Thì ra ch­a ai dạy cho ng­ơi biết thế nào là địa ngục, vậy tận mắt chứng kiến những hình phạt d­ới cõi âm ng­ơi có thấy sợ không?
Câu hỏi xóc ngang của Diêm v­ơng làm cho tính b­ớng bỉnh th­ờng trực trong ông Hàn bùng lên. Bao năm qua học hành, quăng quật đã đuổi hết thiên đàng địa ngục, ma quỷ, hèn nhát khỏi ng­ời, đế quốc sài lang ông còn không sợ sợ gì địa ngục. Ông lắc đầu:
- Tôi không sợ. Chết là cùng chứ gì!
- Khá khen cho sự cứng cỏi của nhà ng­ơi. Vậy nhà ng­ơi có biết tại sao bị điệu xuống địa ngục không?
- Tôi không biết. Không cần biết. Sống trên thế gian tôi luôn hết lòng vì ng­ời, vì mình, tội ch­a đến lần, lỗi ch­a đến phạt, tôi bị điệu xuống đây là vô lý.
Diêm v­ơng c­ời vang. C­ời đã ông rời ngai vàng xuống chỗ ông Hàn nhỏ nhẹ:
- Quả là ng­ơi ch­a biết tội thật. Nh­ng ta cũng không trách ng­ơi, ng­ơi, cả họ nhà ng­ơi bao năm nay chìm đắm trong vô minh thì làm sao mà thấu tội đ­ợc.
- Nh­ng... nh­ng...
- Ta biết bàn tay nhúng tội của ng­ơi đã đ­ợc ăn năn hối cải rửa kỹ, nh­ng bao năm qua họ tộc ng­ơi đã gây ra bao ác nghiệp ng­ơi có biết không?
- Dạ..., có cái biết, có cái không...
- Ta biết. Lâu nay ng­ơi cố trốn tránh ác nghiệp, nh­ng họ tộc nhà ng­ơi càng lúc càng lún ng­ơi không nên tránh?
- Dạ, cái đó thì....
- Biết mà cố tình không ngộ ra cũng coi là tội. Họ tộc nhà ng­ơi bao năm nay đắm chìm trong thù hận nên không chỉ hại ng­ời mà còn hại mình ng­ơi không biết thật không?
- Dạ, quả tình tôi không hiểu!...
- Vậy thì ta phải trả ng­ơi về d­ơng thế để ng­ơi mở mắt mở lòng.
- Nh­ng tôi...
 Ông Hàn ch­a kịp hết câu thì Diêm V­ơng đã phẩy tay, đi nhanh lên ngai, một làn gió lạnh ào đến bốc ông lên khỏi địa ngục, ném bịch xuống chiếc gi­ờng nhà ông Tr­ởng họ khiến ông phải hét lên: “Các ng­ời không đ­ợc đối xử với tôi nh­ thế. Không đ­ợc... đ­ợc...”.
*
*     *
Trên cái sập cạnh gian thờ, chòm sao “Tiểu hành tinh” họ Phạm đang say s­a với chuyện xây mộ Tổ thì bị tiếng hét lạc giọng của ông Hàn phá vỡ. Cả bẩy vội vàng vào buồng bật điện, lay gọi, lôi ông ra khỏi bên mê.
Nhìn các vị tr­ởng lão lo lắng vây quanh, ông Hàn vừa r­ng r­ng vừa bâng khuâng nuối tiếc. Ông thều thào:
- Em đã không nên không phải với họ tộc lắm phải không?
Thấy ông Hàn tỉnh táo, ông Tr­ởng họ mừng rỡ:
- Không sao, không sao, chú tỉnh lại thế này là tốt lắm rồi.
- Vậy việc xây nhà thờ họ...
- Chú cứ yên tâm. Trong lúc chú không may bị cảm gió họ tộc đã mạn phép tiến hành nh­ dự định. Cuối giờ Mùi đã làm xong thủ tục rắc móng, chúng tôi đang định ra xem thợ thuyền làm thế nào đây. 
Ông Hàn vục dậy:
- Vậy các bác cho em ra với!
Ông Tr­ởng họ ấn ông Hàn ấn xuống gi­ờng:
- Không đ­ợc, chú đang ­ơn ng­ời, ra đó phải lại gió máy là không chữa đ­ợc đâu.
Cùng với ông Tr­ởng, chòm sao “Tiểu hành tinh” mỗi ng­ời góp một câu khiến ông Hàn không c­ỡng đ­ợc, đành phải làm đứa trẻ lên năm.
*
*     *
Ông Hàn đang vừa húp bát cháo gạo nếp nấu với linh chi vừa miên man chắp nối lại chuyến đi xuống địa ngục thì một bóng ng­ời lụt cụt đi vào dựng dậy khiến ông luống cuống lùi vào góc gi­ờng, hét lên:
- Ông là ai?
- Ta là ng­ời của ác nghiệp đây, ta đến đây để cho ng­ơi biết thế nào là oan khuất, là ác giả ác báo – Bóng ma trả lời đĩnh đạc.
- Nh­ng oan có đầu, nợ có chủ, tôi đã làm gì đến ông mà ông tìm tôi đòi nợ - Ông Hàn b­ớng bỉnh cãi.
- Ng­ơi không nợ ta nh­ng họ nhà ng­ơi nợ ta. Họ nhà ng­ơi đã ba đời có ng­ời bị mù, bị điên rồi ng­ơi có biết không?
- Thì ra là thế - Ông Hàn nghiến răng trợn mắt nh­ muốn ăn t­ơi nuốt sống bóng ma – Thì ra là ng­ơi, ng­ơi đã...
- Ta có làm gì thì cũng từ nghiệp ch­ớng mà nên thôi!
Ông Hàn vẫn nỗ khi ngút trời:
- Ông không đ­ợc nói càn, nghiệp ch­ớng nghiệp giời gì thì cũng không đ­ợc phép làm cho ng­ời khác thân tàn ma dại.
 Có lẽ thấy giận dữ của ông Hàn có lý, cái bóng rũ xuống, nức lên:
- Bao ác nghiệp trên đời đều khởi nguồn từ tham sân si cả, ng­ơi không biết sự u mê, ác độc của các ng­ơi đã làm ta khổ ta đến thế nào đâu.
Sự chuyển đổi quá nhanh của cái bóng làm ông Hàn nhũn ng­ời, ông hỏi:
- Vậy ông là ai? Tôi đã làm gì hại đến ông?...
- Ng­ơi ch­a hại đến ta, nh­ng họ nhà ng­ơi làm ta khổ quá rồi.
- Họ nhà tôi?
- Đúng, họ nhà ng­ơi. Gần một trăm năm nay ta không biết thế nào là mặt trời, mặt trăng, thế nào là yên thân là vì lũ con cháu họ Phạm đấy.
 - Vậy tôi..., tôi phải làm gì giúp ông?
- Làm gì ­! Ta đang cần kẻ thiện tâm, có sau có tr­ớc giúp đỡ, nếu ng­ơi thành tâm thành ý thì theo ta ra chỗ mộ Tổ họ Hoàng.
Ông Hàn định hỏi cho ra nhẽ thì cái bóng biến thành một một chấm đen vút qua khe cửa.
 “Trả ng­ơi về d­ơng thế để ng­ơi mở mắt mở lòng” – Câu nói của Diêm v­ơng văng vẳng bên tai;
“Quay đầu là bờ” – Răn dạy của ai đó l­ớt nhanh trong óc;
Tò mò, khát khao nhập một khiến ng­ời ngợm rộn rã nh­ đang lên đồng;
Ông Hàn ra mở cửa, tránh đám con cháu đang lúi húi làm bếp, lụt cụt ra ngõ. Ông vừa ra tới cánh đồng thì một cơn gió lạnh ào tới, ông mặt trời đang thả phanh xuống dốc liền bị những núi mây đen ùn ùn nuốt chửng khiến bóng đen trùm lấp vạn vật. “Cản cũng đi, Đi B bom đạn ác liệt thế ông còn đi chẳng là bây giờ” - Ông nghiến răng nhằm h­ớng gò tha ma phía Nam làng mò mẫm.
Nhận biết đ­ợc núm đất nhô cao chính là ngôi mộ Tổ họ Hoàng, ông Hàn hít một hơi dài, nhắm mắt tĩnh trí. Khi ông mở mắt gió đã đánh tan mây tự lúc nào, bầu trời cao rộng, lạnh lẽo, ánh sáng lạnh từ trăng sao soi xuống khiến mọi vật thật nh­ ban ngày. D­ới chân ông hằng hà sa số con bọ hung đội từ lòng mộ lên một chiếc nồi hông xám đen. Ông tò mò lại gần, nhìn kỹ. X­ơng cốt lổn nhổn trong bầy nhầy cùng mùi xú uế l­u cữu bốc lên nồng nặc cho ông biết ng­ời nằm trong nồi hông từ lâu bị chôn vùi trong bẩn t­ởi. Ông hết nhìn cái nồi hông x­ơng lại nhìn ra bờ m­ơng, lời khẩn cầu và cũng là mệnh lệnh của bóng ma tìm tai ông thì thầm, lay gọi. “X­ơng cốt của ai cũng cần phải sạch sẽ, ta hãy thêm một lần ra tay làm phúc” - ông Hàn lẩm bẩm rồi lấy hết can đảm bê chiếc nồi hông ra bờ m­ơng, ngồi tỉ mẩn rửa kỹ từng chiếc x­ơng.
Làm xong cái việc của ng­ời bốc mộ, ông Hàn thấy ng­ời nhẹ nhõm, dễ chịu. Quanh ông không khí mát mẻ, yên bình, mùi xú uế đ­ợc thay bằng mùi hoa dạ lan đậm đặc, tiếng gió u u than vãn bỗng nh­ vuốt ve, nh­ tiếng sáo, những đốm lân tinh vây bọc vụt sáng vụt tắt bỗng lấp lánh nh­ những ánh mắt long lanh. Ông hào hứng bê ng­ời thiên cổ trả về vị trí cũ. Lạ thay, chân ông vừa chạm chỗ  đất bọ hung đùn thì nồi hông x­ơng buột khỏi tay chui tuột xuống đất đen, ông ch­a hết bàng hoàng thì đâu đó một giọng trầm trầm cất lên:
- Cám ơn con, nhờ con mà ngứa ngáy khó chịu trong ta đã bớt đi phần nào.
- Dạ, tôi làm việc nên làm thôi.
-Vậy con có biết ta là ai không?
- Dạ, không phải cụ là ng­ời nằm trong mộ, là ông Tổ họ Hoàng ở làng Đại sao?
- Lầm. Quá lầm. Ta chính là Phạm Văn Vòng, là cụ Tổ của con đây.
Nh­ tiếng sét xẹt qua tai, ông Hàn sụp xuống vái lia lịa:
- Con cắn rơm cắn cỏ lạy cụ! Trăm lạy vạn lạy cụ...
- Con ngẩng lên đi, ta không trách tội con nh­ng ta oán lũ con cháu vô minh không biết rắp tâm hại ng­ời là đào mồ chôn chính mình.
- Dạ th­a cụ, cụ dạy gì con không hiểu?
- Chuyện dài lắm con ạ! Nh­ng dài thì ta cũng phải kể con nghe. Con biết không! Sau khi thoát khỏi bụi trần ta  đang gom ân tích đức thì bị cụ con cho vào tay nải mang đi. Cha theo con là phải lẽ nên ta không mảy may oán thán, nh­ng trớ trêu thay, lập nghiệp đ­ợc ở làng Đại một thời gian thì tham lam, u tối đã làm cho cụ con loạn tâm loạn tính, làm cho họ Phạm, họ Hoàng vốn là bạn với nhau thành hai con hổ chung chuồng. Oán thù đ­ờng trần ch­a chán, cụ con còn theo đ­ờng ma lối hiểm đào x­ơng cốt của ta chôn vào huyệt mộ họ Hoàng, lấy x­ơng cốt của họ Hoàng chôn vào huyệt mộ của ta. Nhát kiếm của thần Sét đã bắt kẻ làm cái việc giời không dung ấy ra đi trong tức t­ởi và cũng mang luôn cái bí mật đổi mộ xuống mồ. Kể từ đó d­ới cõi âm ta và ng­ời bạn họ Hoàng trở thành ma đói ma khát, trên cõi trần có con có cháu cũng nh­ không. Không chỉ có vậy, mỗi khi họ Phạm trả thù họ Hoàng là ta lại ăn đủ cực nhục. Cả chục cái cọc bùa chú đã đóng lên mộ ta. Biết bao cứt đát đã t­ới lên x­ơng cốt ta. Trong nghiệp báo, có báo ứng trả nợ cho đời tr­ớc, có báo ứng trả nợ cho muôn l­ợng kiếp, có báo ứng trả ngay sau việc làm thiện ác. Ta đã cảnh báo, đã báo ứng nhiều lần nh­ng tăm tối vẫn hoàn tăm tối...
- Dạ th­a cụ, xin cụ mở l­ợng hải hà mà th­ơng con th­ơng cháu.
- Ta th­ơng các ng­ơi nh­ng ai th­ơng ta. Ta biết ta càng quả báo con cháu thì tội ta càng đầy lên, nh­ng thân ta đã làm gì để phải chịu cảnh đọa đầy? Hồn đã hại ai mà phải chịu cảnh giam hãm? Ta đã làm gì? Làm gì???...
Tiếng cụ Tổ bỗng rít lên nh­ gió giật làm ông Hàn sợ hãi b­ng tai, bịt mắt, đầu óc quay cuồng nh­ trúng gió.
*
*     *
Sẩm tối, chòm sao “Tiểu hành tinh” họ Phạm cùng con cháu từ chỗ xây nhà thờ hể hả kéo về nhà ông Tr­ởng họ. Thấy căn buồng ông Hàn nghỉ trống trơn mọi ng­ời tá hỏa lên, cả họ nháo nhác lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm, cuối cùng họ tìm thấy Ng­ời quan trọng đang ôm ngôi mộ Tổ nhà họ Hoàng khóc nức nở. Mọi ng­ời bừng bừng lửa giận, sau cái ghé tai của ông Tr­ởng họ một lát sau mấy thanh niên xách mấy xô cứt đái chạy đến. Vừa ngửi thấy mùi hôi thối ông Hàn đã hoảng sợ. Vừa lồng lộn quanh ngôi mộ ông vừa gào lên:
- Đừng làm thế, đừng làm thế, tôi xin các ng­ời, d­ới mộ này là x­ơng cốt cụ Tổ họ Phạm đấy các ng­ời ơi!
Tiếng gào của ông Hàn không những không cản đ­ợc những xô cứt đái t­ới lên ngôi mộ mà ông còn bị điệu lên xe máy chở thẳng ra phố huyện. “Để chú lái xe và thằng Long chở chú ấy về Hà Nội chạy chữa.” - Ông Tr­ởng họ phân bua với mọi ng­ời, nh­ng mọi ng­ời đâu biết ông đã nói nhỏ với Long: “Mày phải cùng thằng lái xe áp giải ông trẻ lên tận nhà trên mạn ng­ợc, ông trẻ mà quay lại cả họ không gánh nổi tội đâu”.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét