Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Bão trở - Trường ca - Đoàn Hữu Nam



Chương 1
Bản của tôi bắt đầu từ một nhúm người *
Người từ phương Bắc
 Kẻ từ phương Đông…
Trong mưa đuổi bão dồn
Nghìn người nghìn đường
Đường nào cũng về đất chết
Trăm người trăm lối
Lối nào cũng lấy củ thay cơm
Cùng đường
Họ ngửa mặt xin giời
Cúi mặt xin đất
Giơ tay cầu người!...


Bản của tôi lớn dần từ sinh sôi
Từ trừ đi cộng lại
…………………….
*Theo nguồn gốc lịch sử các tộc người vùng biên giới phía bắc Việt nam thì dân tộc Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc do nhiều nguyên nhân lịch sử, chính trị, xã hội đã từ đồi núi Hoa Nam thiên di vào miền núi núi phía Bắc Việt Nam.

Người gốc núi gốc rừng
Người du cư quần tụ
Chia nhau cánh rừng
Uống chung nguồn nước
Dựng nhà tay nâng tay đỡ
Giữ bản chung nhau vót tên
Nhà nhà nương vào lý lối
Bao năm giời sinh rừng dưỡng
Bấy năm tối lửa tắt đèn
Một người ốm mười người đưa thuốc
Một người theo tổ tiên đỏ mắt cả vùng
Tết đến nhà nhà chia nhau mổ lợn
Niềm vui khắp bản, khắp rừng…

Bản của tôi!...
Cây tựa cây
Người tựa người
Nhà nhà chung gốc
Chọc lỗ bỏ hạt
Dệt vải xe bông
Cô dâu theo hướng Đông vào lạy bàn thờ*
Linh hồn theo nhau về phương Đông tụ hội
Hội hè ngâm gạo đầy chảo
Hương nếp bay tận nhà Trời
Nhà Trời khen rộng lòng, rộng cửa…

Bản của tôi!...
Nghe tiếng gà
Biết cây quanh nhà trổ lộc
Nghe tiếng sấm
Biết người nở hoa
Mùa tiếp mùa
Đời tiếp đời
Dãy cối nước nối nhau
Như những phím đàn ngân nga bài ca òa ụp
Được mùa dãy cối no thóc
Mất mùa no con mắt nhìn…

……………………
Một trong những phong tục của người Dao

Chương 2
 Ông tôi đã ngoại chín mươi
Ngày ngày vẫn trần lưng bổ củi
Sau tiếng hự là khô ròn tiếng toác
Những giọt mồ hôi to dần trên da
Ông xuống ruộng lên nương
Tinh thóc tinh ngô cựa quậy
Những hạt vàng nối nhau theo ông về bếp
Ông vào rừng
Tinh cây bừng tỉnh
Mắt lá mắt cây quên mùa quên tuổi
Bừng lên đón sấm, rước mưa…
Ông chắp tay trước bàn thờ tổ tiên
Nhà tôi nối đời chữ nghĩa
Ông như bếp lửa giữa nhà
Ngày co giãn
Đời co giãn
Chỉ bếp lửa muôn năm vẫn đỏ
Vẫn muôn năm nuốt củi nuôi người
Cha tôi bảo biết lột xác là đớn đau
Tổ tiên nhường đường cho rắn
Để cháu con bới tan hoang gầm trời
Thuốc trường sinh vẫn ngoài tầm với
Nhưng với ông lại khác
Một đời luyện tôi lý lối
Một đời chữ nghĩa thánh hiền
Một đời ăn quả nhiều rừng
Uống nước nhiều suối
Chân mài đá
Đầu mài trời
Ông là cây lim không biết già
Dây mài không biết chết
Ông như ngôi nhà của mình!

Tôi nhìn ngôi nhà nơi sinh ra tôi
Ngôi nhà nửa sàn nửa đất
Gấp mấy lần tuổi tôi
Bằng một lần tuổi bản
Ngôi nhà như ông tôi
Càng già càng khỏe
Ngôi nhà với những cây cột, cây kèo, xà dọc, xà ngang…
Ngày đêm ăn hơi người, ăn khói
Những cây cột đã mang màu sừng
Mối mọt mòn răng nằm khóc
Trên mái nhà những tấm lợp bằng gỗ pơ mu
Rêu thành tầng thành lớp
Rêu nuôi cỏ nuôi cây
Nuôi mái nhà như mái núi
Trong ngôi nhà mấy thế hệ quây quần
Nồi cơm càng to lòng người càng mở
Rễ người càng tỏa rộng bâm sâu.
Ông tôi bảo lòng người như lòng sông
Có thể nhận muôn vàn con suối
Lòng người như lòng núi
Đủ để ngàn cây lên xanh
Ông còn bảo con người dẫn dắt mặt trời hay mặt trời dẫn dắt con người
Hãy hỏi những ngôi nhà bám vào vách đá!
Chương 3
Cha tôi bảo nước hình thành từ bản
Bản hình thành từ nhà
Nhà hình thành từ lý lối
Lý lối là mặt trời
Mặt trời ngày ngày mang lược vàng chải khắp rừng khắp núi
Lý lối là mưa rơi
Mưa tưới nhuần bờ bãi
Lý lối là khe lạch
Cộng vào thành suối thành sông…
Ông tôi bảo tổ tiên rời chốn chôn nhau
Như rời tầng tầng địa ngục
Trên con đường thiên di
Có dòng sông nước mắt
Súng nổ trên đầu
Vực thẳm dưới chân
Người chết không kịp chôn
Người sống không kịp thở
Người gục dần
Vật gục dần
Đến con ngựa cõng thờ chữ nghĩa
Cũng ngửa cổ kêu giời rồi lạc hồn vào trời xanh
Những người đàn ông nhìn nhau
Những người đàn bà ôm nhau
Phía trước là núi cao vực sâu
Phía trước là gian nan chết chóc
Nhưng phía trước là con đường sống
Con đường phải như sợi dây mài
Bò từ đời này sang đời khác
Con đường phải có lý có lối
Để giữ lòng mình thu được lòng người…

Con đường lý lối khiến những người đàn bà biến mình thành cây củi trong bếp
Khiến những người đàn ông mở mắt mở tai mở chữ mở lòng
Trời chiều lòng người
Nong chữ thành nong cơm
Giếng nghĩa thành giếng nước
Thành cơn gió mồ côi nông rỗng da người…
Đêm nuốt con đường chữ nghĩa dằng dặc như đời người
Đời người như cái nùn rơm giữ lửa
Sáng ra mặt trời soi vào mặt người
Mặt người nở bừng hoa lửa
Già trẻ nhìn nhau
Người Dao đã đầy bụng chữ
Những người thiên di cúi mặt ơn đất
Ngẩng mặt ơn trời
Tiếp tục con đường phía trước!
Cha tôi bảo quá khứ là cái dùi nung đỏ
Xuyên qua đêm, xuyên qua tháng, qua ngày
Những đêm chờ mây ăn trăng
Tôi bắt gặp nước Tam Miêu hùng mạnh
Tiếng quân reo tiếng ngựa hí vang trời
Tôi bắt gặp suy tàn trong đói khổ
Gặp triền miên gươm giáo giữ mình
Và tôi gặp đất nước tan trong lũ
Tan trong tàn sát, hận thù
 Gặp lũ lượt người thoát khỏi lò đồng hóa
Lũ lượt người phải cất bước ra đi
Ai đó cất tiếng hát mồ côi
Bầu trời như cái chài ụp xuống
Triệu con người khát khao chài rách
Để biết trời còn, đất còn!…
Hỡi những linh hồn ngủ vùi trong lưỡi cày lưỡi cuốc
Ngủ vùi trong chảo nồi lúc đói lúc no
Những đêm hành hương về quê hương gốc gác
Con đã nhập vào những linh hồn rên xiết kêu than
Những khúc xương ngọ nguậy
Những vành nôi đung đưa
Con lặn ngụp trên dòng sông cuộn sóng
Thấy vạn vạn người đói khát lầm than
Những chiến binh không đủ sức trèo lên lưng ngựa
Những lão nông không đủ sức nâng cán thuổng cán bừa
Bản bản làng làng dây rừng bò vào tận cửa
Chim lợn mò vào đầu hồi cất tiếng kêu rên
Vợ quên mặt chồng
Con quên mặt cha
Những chiếc giường thừa đầu thừa chân
Quên ấm hơi chồng vợ
Những cái chảo quên mùi củi lửa
Mốc đỏ mốc xanh bò lên tận quai
Những chiếc lá lắt lay
Rơi rụng giữa rừng sâu núi thẳm
Đàn ngựa cõng u hồn tìm bến đỗ
Ngàn năm qua rồi lửa vẫn bỏng trên lưng…

Chương 4
Mẹ tôi kể ngày tôi sinh ra
Năm cũ năm mới giao nhau
Trong nhà - Người chen người chật như củi bó
Ngoài nhà - Người nhường người như trong chợ phiên
Đúng lúc trời đất xoay vần
Đúng giờ nai đùa chuột đú
Tiếng chiêng như vó ngựa cuối chiều
Đúng lúc tưởng như tôi không thể thành người thì bà mụ* thương tình
Bà cho tôi xếp hàng vào rắn rồng con đàn cháu đống
Biết có được tôi
Tiếng gà xiên qua tiếng khóc
Bốn vía tôi bám vào thang giời
Giời đẩy thang ngã vào đám mây màu xám
Mây biến thành mưa
Mưa làm nên dòng sông cuộn sóng
Ba vía tôi chui chín tầng địa ngục
Ma quỷ quay đầu
 Diêm vương lánh mặt
Cửa Âm Dương rộng lối đi về
Cha tôi ngửa mặt ơn giời
Tám vạn bốn nghìn năm**
Chờ những kiếp người vùng vẫy…

Tôi lớn lên
Thừa hưởng nghiệp nhà
Thừa hưởng con đường lý lối
Trong căn nhà đời nối đời nuôi lửa
Ông tôi truyền chữ cho tôi
Chữ trong bồ
Chữ trong lòng
Chữ của nghìn năm lý lối
Chữ của chênh vênh hai mố Sống – Còn…

Ngày tiếp ngày tôi nuốt chữ từ ông
Những con chữ như dây mực không lựa gỗ
……………………….
*Theo tín ngưỡng người Dao, Bà Mụ là một nữ thần chăm lo việc sinh đẻ và chăm sóc cho đứa trẻ từ khi mang thai đến khi làm lễ trưởng thành. Bà Mụ luôn được người dân hết lòng thờ cúng với lòng tôn kính.
**  Theo đạo Phật, tuổi thọ của loài người dài nhất có thể đến 8 vạn 4 nghìn năm.     
*** Chữ Nôm Dao là loại chữ trên cơ sở chữ Hán, người Dao tiếp nhận một số từ của Nôm Tày, Nôm Việt đã được Dao hóa (biến đổi), được người dân tộc Dao dùng để ghi chép các lý lối, phong tục, phản ánh đầy đủ nền văn hóa, đời sống sinh hoạt, sản xuất của đồng bào Dao. việc học chữ Nôm Dao là yêu cầu bắt buộc đối với nam giới khi được "cấp sắc", ghi nhận sự trưởng thành của người đó.
**** Trong lễ nghĩa, lý lối cũng như trong tu dưỡng đức hạnh cá nhân, cộng đồng, người Dao chịu ảnh hưởng sâu sắc "Đạo Trung Dung" và các đức tính "Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín" của Khổng Tử.

Như lửa không nể vàng
Chữ biến tôi thành con ngựa đổi lông mao
Thành con suối nhập dòng ra biển.

 Mẹ tôi bảo đàn ông sinh ra đã có nước
Đàn bà sinh ra đã có hột
Nước trong người đàn ông suốt đời đòi chảy
Hột trong người đàn bà quanh đời mơ nở

Cha tôi bảo muốn nước chảy vào phai
Người đàn ông phải đi qua Cấp sắc*
Cấp sắc nghĩa là lột xác
 Là từ thế giới thần tiên sang thế giới lo toan.

Qua tuổi mười ba tôi qua tuổi thần tiên
Để bước vào tuổi mới
Nhà lo ngày cấp sắc cho tôi
Kỹ như bản lo lễ hội
Ngày ngày tôi luyện tôi lý lối
Ngày ngày cả họ tích góp của nhà của rừng
Đàn lợn trong chuồng ngoài vườn
Lợn như người
Hết mùa thì gầy, đến mùa lại béo
Đã qua mấy mùa gầy béo
“Thần Chư” vẫn chửa lên mâm
Đã mấy mùa những cum thóc kéo võng xà nhà vẫn chưa được vào cối
Những mộc nhĩ nấm hương măng mai măng nứa…
Chồng lên nhau ăn khói chờ người!

Mùa heo may
Mùa thóc ngô trèo lên sàn nằm ngủ
…………………………..
* Lễ cấp sắc là lễ người trưởng thành của con trai người Dao. Người con trai  trải qua lễ cấp sắc, về phần âm được công nhận là con cháu của Bàn Vương, được cấp và chỉ đạo binh quân, về phần Dương được công nhận đã được giáo dục, rèn luyện về nhiều mặt, có tâm, có đức để phân biệt phải trái để làm trụ cột của gia đình, dòng họ và cộng đồng.

Mùa trâu ngựa phởn phơ gặm cỏ
Bếp lửa đợi đàn ông thảnh thơi
Guồng xa đợi đàn bà cần mẫn
Mùa tôi lột xác đổi đời!

Ngày cấp sắc cho tôi bản vui như tết
Vui như cấp sắc cho mình
Trời chưa sáng mà con đường dẫn đến nhà tôi đã thành mương dẫn nước
Dẫn thóc, dẫn ngô, dẫn ríu rít nói cười
Cha mẹ tôi mở cửa mở bồ
Đón lòng người nuôi bếp lửa
Lửa không phụ lòng người
Rừng rực xuyên qua những ngày làm lễ.

Trong sự dẫn dắt của thần linh của tổ tiên tôi ba ngày thụ lễ*
Ba ngày lội ngược ngày qua
Trôi vào những ngày sắp tới
Ba ngày lý lối chập chờn…
Bên kia đêm ba mươi sáu binh quân chờ tôi như quân hầu chờ chủ**
Bên này đêm bà Mụ níu giữ tôi như níu giữ con ba ba sắp tới bờ vực
Mười ba năm trong vòng tay bà Mụ tôi như cái mảng trên bến
Như quả trứng trên tay người đi giữa chợ phiên…
Ba ngày
Qua được thử thách đầu đời tôi sẽ xuống nước không trôi, vào lửa không cháy
Lý lối như đốt măng mai chồng nhau, tôn nhau!
Đêm trước giờ phong sắc dài như nằm đợi tiếng gà
Ngắn như những ngày trong vòng tay bà Mụ
Ba ngọn đèn rửa sạch tội đã qua
Soi sáng ngày sắp tới
Ba ngọn đèn như mắt mẹ tôi
Cháy thâu đêm suốt sáng
Và em nữa!
Em đang tiếp củi cho bếp hay tiếp củi cho mình
Tôi lột xác hay em đang lột xác
Xin hãy hỏi giời, hãy hỏi mắt em tôi
………………………………….
* Tiến trình của lễ cấp sắc.
** Lễ cấp sắc của đồng bào Dao có 3 bậc, bậc đầu tiên là cấp 3 đèn và 36 binh mã; bậc thứ 2 được cấp 7 đèn và 72 binh mã; bậc cuối cùng là 12 đèn và 120 binh mã.


Tiếng cúng rền như chảo bánh trên bếp
Rền như tiếng sấm đầu mùa
Tiếng cúng dẫn đầu dẫn cuối
Dẫn tôi đi trong đạo Làm người!

Dẫu đầm mình trong thực trong mê hồn tôi vẫn không rời ba tờ tranh thờ ba vị thần định mệnh
Một trong ba vị thần sẽ ứng vào tôi như sinh ra tôi lần nữa
Một trong ba vị thần sẽ chỉ bảo tôi cách điều khiển binh quân như điều khiển tốt xấu hàng ngày
Ba vị thần
Thần Thài vẳy - Thần của bình yên
Thần của thạo thông lý lối
Thần mang chịu đựng khiêm nhường của núi của sông.
Thần Zồng tàn - Thần của tướng cầm quân
Thần của giữ rừng giữ núi.
…………….
* Phỏng theo lời bài cúng trong lễ cấp sắc.


Thần Hòi phan - Thần của chân mệnh đế vương
Của khát khao nghìn đời dồn tụ
Của hy vọng muôn người loe lóe phía hừng Đông.

Tiếng gà dẫn người qua đêm
Hương khói dẫn tôi vào vòng quay số phận
Trong vòng quay tôi lại gặp tổ tiên
Gặp cuộc thiên di mười người ra đi chín rưỡi người nằm lại
Người như kẻ cầm đuốc đốt hai đầu
Như trâu măng dẫm thừng luấn quấn
Tôi gặp những ngôi nhà
Gốc tường đá chôn vào trong đá
Ngọn tường đá chôn vào trời xanh
Lời nguyện cầu vùi vào trong đá
Đóng cửa mất nhà mở cửa mất quê!
Tôi đã chui vào ma trận người, ma trận rừng, ma trận giời
Và tôi thấy giời gần, rừng tràn, còn con người quấn nhau như cây mây cây mái
Tôi bỗng được một cụ già khoác lên vai chiếc áo màu rừng
Đặt vào tay ngọn bút
Tôi vung bút lên trời
Hai chữ Bình Yên đậu lại
An lành phúc đức dâng dâng.

Chương 5
 Sau lập đông ngọn gió chuyển mùa
Cây khế như cây rơm vàng rực
Cánh đồng màu khế vàng tươi
Hái liềm mong đợi nụ cười trên môi
Con suối mang màu trăng lấp lánh
Cá đua nhau đớp mây đớp sao
Ông trời gom nắng gần xa
Cất vào đêm để ríu ran tiếng cười
Nhà nối nhà khắp rừng khắp núi
Làng dưới bản trên say bán mua
Ông tôi quên cả già nua
Ngày ngày lên núi đón đưa nắng trời
Dâu bể dần tuột trôi ra biển
Lòng núi dây mài nuôi trắng trong
Nhà nhà om trám nồi đồng
Kho cá nồi đất xào lòng khế chua
Nhìn đồng lúa đua nhau uốn cong
Cha mang cối chày ra lau rửa
Bờ đầm bìm bịp gọi mưa
Gọi rừng mở cửa đón mùa cốm thơm
Đêm tháng mười quên cả tiếng gà
Dài như heo may lùa vách nứa
Ơn giời thuận nắng thuận mưa
Cho cha tôi với ngày xưa mở lòng
Lòng giời ủ vẩy tê tê
Lòng rừng khấp khởi sẻ chia mùa màng…

Yêu đến thế những tháng ngày bươn bả
Đắp khe làm ao, bạt núi, san đồi
Sau lầm lụi là mùa màng gặt hái
Là con đường dài rộng đỡ bước chân!

Yêu đến thế núi muôn đời kiêu hãnh
Suối muôn đời mơ mộng sóng biển dâng
Đầu hồi nhà những cuốc cày vẹt lưỡi
Đêm ngày mơ lật đất cấy trồng!

Yêu đến thế hỡi ngọn bền gốc vững
Rừng, suối, ruộng, nương cho đời tiếp đời
Người giữ rừng hát bài ca nuôi nước
Người giữ nhà nuôi bài ca bình yên…

Tôi lạc giữa rừng mai rừng trúc
Thấy dây leo cây cây chiều theo dây
Rồi sấm nắng sẽ rộn ràng trên bến
Tiễn tháng ba đi đón tháng mưa về!

Chương 6
Chị tôi sinh giữa mùa trăng
Mùa trăng lặn vào da thịt
Cha tôi lên ngọn suối thiêng
Gánh về hai bương nước
- Gáo này là sữa thần suối
 - Gáo này từ rễ thần cây
 - Gáo này trăng soi kẽ lá
 - Gáo này nước mắt trời buông…
Từng gáo nước thấm vào da thịt chị
Tan tan trong khao khát đời người
Chiều lòng người chị như con của Giời
Da trắng như vớt từ thùng bột
 Tóc bồng bềnh như suối chảy rừng thưa
Nhà không giàu nhưng cũng đủ để chị tôi thành bông hoa nở đúng kỳ đúng vụ
Cũng đủ để vòng cổ vòng tay
Reo quanh ngày quanh tháng
Đủ để màu xanh của rừng
Áp vào thịt da mỗi buổi…
Chị là hạt nếp lớn trong chõ xôi
Là hạt ngô nuôi sữa trong bắp
Ngày ngày chị ra suối tắm
Có đàn ong mật bu hoa
Đêm đêm ngồi đợi trăng lên
Có đàn kiến càng bu mật
Mật hoa mật người
Chảy tràn tuổi măng tuổi lộc
Nhưng cả họ không ngờ
Cả bản không ngờ
Người đẹp nhiều khi là gốc của tai ương
Là mầm của ngàn ngàn tai họa
Một lần tung tăng xuống chợ
Một lần tiêu rỗng qua tai
Một lần không lọt lời già lòng trẻ
Chị thả mình theo dòng trôi!
Ngày chị lên ngựa về nhà chồng
Mặt trăng nuốt mặt trời như trăn nuốt chuột
Thương trời hay thương người
Nhà nhà đổ ra đầu hồi
Đất trời trong cơn huyên náo
Con ngựa cõng chị lồng lên
Cái khăn màu đỏ trên đầu nhằm vũng trâu đằm sà xuống
Với người Dao khăn đội đầu là hiện thân của cái đẹp
Là linh hồn người đàn bà
Khăn nhuộm cứt đái bùn đen
Báo lành hay báo gở?...
Bước qua cửa nhà chồng chị lạy bàn thờ
Chị lạy bếp lửa
 Lạy cha chồng
Lạy ngôi nhà giam nhốt…
Ngày ngày chị như con kiến leo cành khô
Như gốc mai thả vào hõm đá
Nhà có hai người thì cả hai người nghiện
Hai cái tẩu không biết trẻ biết già
 Thản nhiên thả khói về giời!

Cái chết đến với chị từ từ như mọt gặm cột
Như mối gặm cây khô
Đàn bà người Dao sinh ra đã ăn phải bả công việc
Chị còn ăn phải bả đòn roi
Chị thành hạt ngô kẹt giữa hai thớt cối
Thành con hến rơi giữa vũng trâu đằm
Thêm một ngày là thêm cây lột vỏ
Thêm một đêm là thêm gấu ăn trăng
Đêm bão giông rừng mất nắm lá ngón
Nhà tôi mất một con người!..

Rời khỏi cõi tạm chị đi
Quên mang thuốc lú bùa mê về giời
Buồn đau chửa cất nên lời
Đã thon thót lá vàng rơi trái mùa!...
…………………………..
* Phỏng theo dân ca Dao.

Chương 7
Từ khi về nhà chồng
Nước chỉ một dòng
Lửa chỉ một bếp
Mẹ em như cái đít nồi quanh năm đỏ lửa
Có em mẹ vụt lớn bằng người
Chín tháng mẹ không đốt củi đằng ngọn*
Chín tháng mẹ không bước qua chạc buộc trâu
Chín tháng mẹ nói lời hay
Mẹ không khâu quần áo cũ
Ngày ngày ra bến thả thuyền
Khát khao thuyền ra tới biển!...

Ngày sinh em gió giật mưa rơi
Bà Mụ cõng vía nụ vía hoa
Ngược dốc!
Nước mắt chảy xuôi
Đóng cửa là việc nhà
Mở cửa là việc bản
Già bản ra đầu hồi
Tiếng tù và thúc rừng thúc núi.

Bản săm sắn nỗi lo ruột thịt
Chín bông hoa rừng
Chín bông lúa ngậm sữa
Chín ngọn măng
Chín khúc củ mài ứa nhựa…
Chín vía em bay trong mưa
Cả trăm tấm lòng níu lại
Thành tâm động đến lòng giời
Cầu vồng uốn cong ngọn núi!

Em lớn lên từ công sức mẹ cha
Từ sữa của thần rừng thần núi
Từ trăng sao, từ công việc thường ngày
Sớm sớm chiều chiều những con dốc cho em bộ ngực đầy căng
Cho em cặp mông chắc khỏe
Ngày ngày thần Nước vuốt ve
Đêm đêm thần Trăng soi lối
Tháng tư về thần Ve dẫn em ra ruộng quải bông
Tháng năm đến thần Chim đưa em lên rừng hái quả
Đất, trời, nước, trăng, bông, quả
…………………………
* Tục kiêng cữ khi mang thai của người Dao đỏ.

Cho em thành chim gọi bầy
Con cá giữa đàn náo nức
Ngày ngày
Trai bản thành ngựa không cần roi
Lừa không cần xỏ mũi
Sáo trúc trầm bổng đầu hồi
Kèn lá nỉ non đầu ngõ
Nền cổng nhẵn như đá mài
Áo em trải lên ngút ngát cỏ gianh
Bao con mắt hình mũi dùi ngã rạp
Em từ suối đi lên
Những giọt mật tong tong
Bao chàng trai đuổi theo hốt từng vốc cát
Mang về ủ suốt mùa đông...
*      *     *
Anh tìm em
Mùa lau ra cờ
Mùa gió tát nước
Nắng đuổi em vào bóng cây
Mưa xua em vào hang đá
Bóng cây anh chờ
Hang đá anh trú
Hà bá mong mùa nước lũ
Hổ báo mong ngày rừng động
Là anh!...
Anh khao khát đời mình như đời lá
Vào mùa được xanh hết mùa được vàng
“Em như cây mía mơ lưỡi dao
Như cái kiềng mơ bếp lửa
Con suối mơ sóng biển dập dềnh”*…
Tiếng em như tiếng họa mi
Mềm cả quái chiều đỏ lửa
Tiếng em như sứ giả
Dẫn bản vào đêm thần tiên
Tiếng em vào tai người già
Người già rung chòm râu bạc
Tiếng em lọt tai người trẻ
Trái tim gấu ngựa nở bung
Tiếng em như rễ người
……………….
* Phỏng theo tục ngữ Dao.
Thu dấu chân về một mối…
Anh ngước lên trời
Ngàn sao vỗ cánh
Con tim dẫn lối đưa đường
Anh thả cây mía làm cầu
Cây mía trườn qua ngực em
Cho hồn anh mật rót!

Mơ cùng ước còn chờn vờn khói bếp
Lòng đã bay theo tiếng sáo bổng trầm
 Trăng rải men tình lên sóng nước
Đốm lửa dập dềnh trong đêm say
Cho ta ngợp giữa trời mây
Cho ta ngâm ngấm phút giây yên lành
Cho ta thấy chòng chành trên đất phẳng
Thấy nổi nênh trong chìm lặng giữa dòng
Nho rừng chờ họa mi nhuộm mỏ*
Mỏ đỏ rồi mỏ hót lời xanh
Chim ơi nho quả rời cành
Lá xanh năm bẩy lượt cây vẫn dành đợi chim…

Anh đã thổi ngàn lời mật rót
Mang heo may rải dọc tháng mười
Sao em vẫn cánh diều bay chấp chới
Vẫn vầng trăng lấp lánh giữa mênh mông
Vẫn chăm chăm cuộn bông tở dọc ngày dọc tháng
Dọc những bước chân ra ruộng lên nương
Em mặc anh như chú ngựa hoang đuổi theo mặt trời
Mặt trời thu lược vàng xuống núi
Chú ngựa hoang giữa cao nguyên vời vợi
Không biết chui vào đêm hay chui vào trăng…
Trong nhập nhòa sáng tối mông lung
Anh bỗng thấy quanh mình cỏ xanh rười rượi
Những ngọn gió đẫm mùi hương ngải đắng
Nối nhau trẩy hội cuối trời!
Anh bỗng thấy con ốc sên bò mấy mươi ngày không qua bờ đá
Trăng rót mật trên đầu không dứt nổi cơn mê
Và bỗng thấy tóc vàng bay hờ hững
Trong bức tranh dang dở giữa không cùng…
……………….
* Phỏng theo tục dân ca Mông.

Đêm Hội tan như thia lia trên suối
Đuôi ngựa thôi ấm tay em
Anh còn say ngật ngưỡng
Cổng nhà em mở rồi
Anh về vía ở lại
Em ra đầu hồi thái cỏ ngựa
Vía sà xuống lưỡi dao
Em ra cầu ao cho cá ăn
Vía làm cá nhoi lên đùa trong áo
Em vào bếp nhóm lửa
Vía nhập vào khúc củi tươi lấy nước mắt người…
Em như quả mít chín mùa đói
Nhìn vỏ đã ơn múi mỏng dày
Lòng người ngã ba ngã bẩy
Lòng này khát thóc đầy chum…

Anh khao khát có em như tờ giấy khát chữ
Con suối kia khát nước
Lá cây kia khát ánh mặt trời!

Anh khao khát bởi bồn chồn bờ đá
Bóng dùng dằng đi ở với ngu ngơ
Tàu chuối rừng anh mang theo làm ổ
Rũ như quạ già say nắng say mưa

Anh khao khát bởi nùn rơm giữ lửa*
Qua mấy mùa vẫn bỏng cháy trong anh
Mỗi buổi sáng vòng cổ vòng tay lanh canh qua ngõ
Ngọn lửa bùng lên cho mắt thay tai

Anh khao khát không thể nào lý giải
Gió quẩn chân người chân ngựa vì đâu
Chưa mở miệng răng đã đè nhầm lưỡi
Bước chân luôn làm nhỡ bước chân

Anh khao khát… Ngày lũ em qua suối
Lòng anh thành đám mạ trâu quần
Cùng giời đất bắc cầu vồng qua núi
Em không leo mưa cũng tạnh, nước ròng…

Cầm bằng muối thả xuống sông
Rùa lăn xuống vực vẫn mong có ngày!!!
………………..
* Trước đây đồng bào thường vặn rơm làm nùn để giữ lửa, giữ hơi ấm và xua bớt muỗi trong nhà.

Chương 8
Tháng Giêng mở cửa
Sấm nở mưa sa
Núi rừng náo nức
Trâu mơ khỏi chuồng
Mối mơ khỏi tổ
Nghe tiếng gà thúc
Hổ, gấu giật mình
Lửng, lợn thức giấc
Gầm trạn cóc kêu
Đầu bản hươu tác…
Làng bản bước vào mùa sinh sôi
Lao xao như cao nguyên mùa cỏ
Hoa chanh nở tím bờ ao
Đồi nương nấm nở như vãi gạo
Chông non lởm chởm rừng gianh
Những bông hoa rừng nửa khoe nửa giấu
Như mắt em nửa e ấp nửa phô
Cây táo dại trổ bông
Nở ra đàn ong quấn quýt…
Hỡi những mái nhà én về đan tổ
 Rừng núi suối sông rờ rỡ sắc màu
Và kia nữa mưa đầu mùa rót mật
Cây mở cờ, mối rũ cánh trong mưa
Kia kia nữa hoa xoan tìm đường trắng
Người tìm đường dẫn nước vào phai
Trời đất bảo bạc vàng nhường cơn đói
Nên ai ai cũng háo hức nương đồi
          Ngày bản đón thần tài về phát lộc
Bản thành mâm xôi nóng ấm tay người
Mắt trong mắt tay trong tay náo nức
Anh mong chạm bông hoa mọc cổng thiên đường
Anh ngây ngô mang sợi dây chăng khắp núi khắp đồi
Mong bẫy được con trâu vàng ăn lúa
Anh thả mật đón ong thả cơm đón kiến
         Thả anh vào ngọn lửa giữa đồi gianh
Em đừng trách anh, trách rồng rồng theo mẹ
Trách đòng đong đón sấm đầu mùa
Dẫu ba ngày không cơm vào bụng
Em ở bên kia dốc anh cũng trèo
Em đừng trách làm sao anh buông nổi
Không có em trời nổi mây buồn
Những vòng thia lia bay trên sóng
Tan tan trong vụng dại đầu đời
Em đừng trách…
Không có lòng thì thôi
Có lòng đừng như trâu già ẩn nắng*
Như ba ba lấy vực làm nhà
Cửa nhà em ba mươi lần then
Trâu nhà em ba mươi lần cọc
Yêu em then cửa thành dọc mùng
Cọc trâu thành đất sét
Em không yêu anh thì thôi
Yêu anh em hãy ngửa bàn tay
Bụng bàn tay chỉ đường chỉ lối
Yêu anh em hãy úp bàn tay
Lưng bàn tay cho da cho thịt*
Yêu anh em hãy quỳ trước mẹ trước cha
Quỳ từ lúc tiếng gà đuổi bóng đêm
Đến lúc bóng đêm gọi gà tìm chỗ ngủ
Em hãy coi mình là người mắc nợ
Không trả được kiếp này kiếp khác còn không?...

…………………..

*Dựa theo tục ngữ Dao.

1 nhận xét:

  1. Cháu chào chú Đoàn Hữu Nam,
    Trước tiên cháu xin phép xưng hô như vậy, vì cháu có tìm trên Google nhưng chỉ thấy hình chú mà không biết năm sinh.
    Cháu tên là Đặng Văn Hiện, sinh năm 1990, là người dân tộc Dao Tuyển.
    Cháu rất bất ngờ khi đọc xong trường ca Bão Trở của chú, thậm chí cháu đã hiểu hơn về người dân tộc mình qua bản trường ca này.

    Cháu đăng bình luận này có 3 mục đích, một là cảm ơn chú đã có một bài trường ca rất hay và ý nghĩa về người Dao, về quá trình "thiên di" và những tín ngưỡng, văn hoá của dân tộc mình.

    Hai là, cháu thấy hiện nay Chi Hội Thơ Lào Cai vẫn chưa có một diễn đàn (website) chính thức nào mang tính online và public. Cháu là Kỹ sư Công nghệ thông tin, và đã thiết kế xây dựng khá nhiều website nhà trường và cơ quan Nhà nước, cháu có một ý định lập một trang web (diễn đàn) về Thơ - Văn - Tiểu thuyết... dành cho Hội những người sáng tác tại Lào Cai.
    Được biết hiện tại chú là Trưởng Chi hội Thơ, đồng thời là Phó chủ tịch Hội VHNT Tỉnh. Vậy cháu xin kiến nghị với chú về việc xây dựng một diễn đàn công cộng về lĩnh vực này. Cháu sẽ nhận thiết kế và xây dựng cũng như bảo trì website.

    Ba là, cháu dù học Công nghệ thông tin nhưng lại rất thích văn thơ và tiểu thuyết. Cháu cũng viết thơ và sáng tác từ năm 15 tuổi, chủ yếu là thơ tình học sinh khá ngây thơ và có phần... mơ mộng kiểu trẻ con.
    Cháu bắt đầu viết nghiêm túc kể từ khi cháu 18 tuổi, là năm cuối cấp 3. Đến nay cũng có hơn 600 bài thơ và chủ yếu là thơ tình.
    Mục đích thứ 3 này của cháu là mong muốn được gia nhập Chi hội thơ Lào Cai. Cháu chưa rõ về điều kiện gia nhập cũng như yêu cầu tối thiểu để gia nhập, vì vậy rất mong chú có thể phản hổi vào email (dưới đây) cho cháu.

    Đây là thông tin chi tiết của cháu:
    Họ và tên: Đặng Văn Hiện
    Biệt danh: Quang Hiện
    Năm sinh: 15/8/1990
    Quê quán: Nậm Khánh - Bắc Hà - Lào Cai
    Dân tộc: Dao
    Công việc hiện tại: Giáo viên Tin học
    Đơn vị công tác: Trường TH Thị trấn Bắc Hà, Bắc Hà, Lào Cai.

    Số ĐT: 0964 03 9198 - 0913 04 9198
    Email: quanghien1990@gmail.com

    Quan niệm viết thơ:
    #1.
    Cuộc đời ta quá đỗi yêu thơ
    Đến nỗi đi đâu cũng vật vờ
    Ôi nếu một ngày ta có chết
    Chắc là do ngạt vì hôn thơ.

    #2.
    "Đường mờ" ít để người xem
    Viết thơ chỉ để đã thèm mà thôi
    Đời tôi kết nặng thơ rồi
    Vứt đi tôi cũng vứt đời mình luôn.

    * Đường mờ là tập thơ đầu tay của cháu
    ---

    Tiện đây cháu mạo phép gửi chú xem giúp cháu bài thơ cháu mới viết sáng nay:
    (Quê hương là đề tài mà cháu còn gặp nhiều khó khăn trong việc sắp xếp cảm xúc)

    ---- Nơi đây một vùng cao ----

    Nậm Khánh nơi đây vùng núi cao
    Quanh năm là nắng với mưa rào
    Chẳng biết từ bao giờ Nậm Khánh
    Thành quê La Chí, Nùng, Kinh, Dao.

    Trời làm đất chuyển mình sang hạ
    Bận cũng mon men đến mọi nhà
    Ngày mùa quanh quẩn đồng sang áng
    Mảnh ruộng bậc thang nào trắng ra…

    Rồi cũng đông, xuân, thu ghé qua
    Ngàn năm đi mãi vẫn chưa già
    Cứ ngỡ riêng người là vội vã
    Mà không, mọi thứ đều như ta.

    Đất ơi tôi nhớ màu nguyên vẹn
    Một thoáng non xanh nước biếc xưa
    Cố tìm hoài niệm đang tan vỡ
    Mái đỏ làm nay khác bấy giờ.

    Trả lờiXóa