TS Phạm Duy Nghĩa
Trưởng ban Lý luận phê
bình tạp chí Văn nghệ quân đội
Trên đỉnh đèo
giông bão
(Nxb Quân đội nhân dân, 2004) là tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam hưởng ứng cuộc vận động sáng
tác về đề tài chiến tranh cách mạng. Là người đầu tiên được tác giả cho đọc tác
phẩm ở dạng bản thảo với những trang A4 xếp rời, tôi ngạc nhiên ngắm nhìn cuốn
sách tương lai trên mặt bàn như chiêm ngưỡng một trận giông bão mùa thu trên
đại ngàn miền núi. Ào ạt hình sắc, ào ạt ngôn từ. Ấn tượng đầu tiên đến từ chữ,
rồi tới nghĩa.
Nếu như tiểu
thuyết Việt Nam
giai đoạn 1945-1975 lấy cái chung để đánh giá cái riêng, lấy số phận cộng đồng
để định đoạt số phận cá nhân, thì ngược lại, hướng đi chung của các tiểu thuyết
đương đại là từ số phận cá nhân mà soi chiếu trở lại lịch sử và cộng đồng. Tác
phẩm của Đoàn Hữu Nam
cũng nằm trong mạch vận động mang tính thời đại ấy. Từ cuộc tranh giành, thù
hận của hai nhà họ Sần và họ Hồ, tác phẩm tái hiện lại lịch sử Lão Nhai (tên cũ
của Lào Cai) trong giai đoạn Việt Minh tiến đánh Quốc dân đảng, giải phóng các
vùng, chống Pháp trở lại xâm lược. Nhìn vào đề tài thì hướng đi của tiểu thuyết
này theo một vòng tròn đồng tâm với Đồng bạc trắng hoa xoè và Vùng
biên ải của Ma Văn Kháng. Nhưng không lặp lại chủ đề thương thuyết với thổ
ty và tiễu phỉ như hai cuốn tiểu thuyết kia, Đoàn Hữu Nam khơi sâu vào vấn đề khác: vấn
đề thu phục lòng dân. Nhiều năm bị buộc chặt với thổ ty bởi luật tục,
miếng ăn, sự mông muội và nỗi sợ cố hữu khiến người dân "sống trong nô lệ
tự nguyện" và không dễ gì theo Việt Minh. Muốn giành dân, người cách mạng
chỉ có con đường "ba cùng", hiểu dân và làm cho dân hiểu. Như vậy,
theo cách ví của Gamzatov thì ở đây, tác giả Trên đỉnh đèo giông bão
không đi vào lối mòn của tiền nhân mà đã mở cho mình được một lối đi riêng qua
khu rừng văn học.
Không chuyên
chú vào nội dung, người viết bài này quan tâm nhiều hơn đến nghệ thuật của cuốn
sách. Có thể nói, Trên đỉnh đèo giông bão là cuốn tiểu thuyết hiếm hoi
của Lào Cai bắt nhập được vào hơi thở mạnh mẽ của văn xuôi đổi mới đương đại.
Đặt nó bên cạnh Tình rừng, Dốc người - những tiểu thuyết trước
của Đoàn Hữu Nam ,
thấy cuốn này lạ hẳn. Sức hấp dẫn của nó trước hết nằm ở văn, và đằng sau văn,
là sự can thiệp một cách khá tự nhiên của kĩ thuật.
1. Điều dễ thấy
trước tiên khi tiếp cận tác phẩm này, là Đoàn Hữu Nam đã đẩy sự vật đến mức không
bình thường, thực chất đó là thủ pháp lạ hoá. Shklovski, người theo chủ
nghĩa hình thức Nga cho rằng nghiên cứu hình thức tác phẩm văn học chính là
nghiên cứu thủ pháp này. Lạ hoá được Đoàn Hữu Nam sử dụng một cách có ý thức,
không phải trực giác, ngẫu nhiên. Trong thế giới nghệ thuật của anh, cái gì
cũng lạ. Thiên nhiên, tạo vật lạ: màu đất ở Suối Hoa không giống những nơi khác
mà "vàng tươi như ai đó lấy đỗ xanh xát vỏ, đồ thành xôi rồi rải ra khắp
đồi, khắp ruộng". Hiện tượng sinh nở lạ: Chẩu Po gan lì đợi đến lúc năm
mới năm cũ giao nhau mới bình thản chui ra từ bụng mẹ, toét miệng cười,
"nụ cười khinh mạn của đứa trẻ sinh ra một cách không bình thường, trong
ngày giờ không bình thường". Bệnh tật lạ: cô Dỉ mắc căn bệnh kì quái, mỗi
lúc trăng lên lại thấy nóng hừng hực "tưởng chừng chỉ cần xoè que diêm là
toàn thân bùng lên như cây đuốc".
Đối tượng mô tả
còn được lạ hoá bởi sắc màu tâm linh. Sắc màu này phảng phất trong hình
non, thế núi của Suối Hoa, vùng đất hội tụ âm dương ngũ hành, cho đến những chi
tiết như tàn than tờ giấy của kẻ giết người từ bếp lửa xoáy tít, "đậu trùm
lên bát nhang thờ tổ tiên trên bàn thờ, trông như một con bướm màu đen",
và bó hương không bén lửa bỗng cháy đùng đùng sau lời khấn đứa con vừa bị giết
của Sần Đạt... đã tạo không khí kinh rợn cho tác phẩm. Yếu tố tâm linh có sức
ám ảnh nhất là hiện tượng đầu thai của Lù Tà - đứa trẻ bật ra từ bụng mẹ vào
đúng lúc lưỡi tầm sét giật vỡ toác cây chò, khi nói được thì bi bô kể cho mọi
người biết nhà nó ở đâu, kiếp trước vì sao mà nó chết...
Những năm gần
đây, sự đan cài các yếu tố thực và ảo, ý thức và tâm linh xuất hiện khá nhiều
trong truyện ngắn, tiểu thuyết. Sự phiêu diêu và tri giác của hồn ma trong Hậu
thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ) và Bến trần gian (Lưu Sơn Minh),
hình tượng kì ảo trong Con gái thủy thần của Nguyễn Huy Thiệp, sự linh
ứng ở cây cối về sức khoẻ, tính mạng con người và hiện tượng quả báo trong Bóng
của cây sồi (Đỗ Bích Thúy)... cùng nhiều tác phẩm nhuốm sắc màu huyễn tưởng
(fantastique) khác đã mở ra những không gian nghệ thuật mới, đi vào những thế
giới bí ẩn hoàn toàn xa lạ đối với văn học cách mạng trước đây. Việc vận dụng
lạ hoá và tâm linh như một yếu tố thi pháp trong tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam tỏ
ra rất phù hợp với nét huyền bí đặc trưng của không gian miền núi.
2. Đặc điểm cơ
bản thứ hai trong tác phẩm của Đoàn Hữu Nam là sự kế thừa vốn văn hoá
dân gian các dân tộc. Ngoài việc đưa vào mạch trần thuật các thành ngữ như
"nước lên cá ăn kiến, nước xuống cá làm mồi cho kiến", "được
lòng nỏ, mất lòng sóc", "rễ cây ngắn, rễ người dài", Đoàn Hữu
Nam còn tiếp thu thành ngữ một cách sáng tạo và chuyển hoá chúng thành các vế
câu mang tính ẩn dụ. Có thể liệt kê hàng loạt những trường hợp này: "quạ
già khôn hay đại bàng non khôn",
"con cua trước con ếch", "cây muốn lặng, gió chẳng
dừng"... Ngoài thành ngữ, tục ngữ, câu đố, tác giả còn lồng truyền thuyết
vào cốt truyện (truyền thuyết núi Rồng, núi Chúa) và đưa dân ca Giáy vào những
trang miêu tả lễ hội. Vận dụng văn hoá, văn học dân gian là việc làm mang tính
truyền thống của văn xuôi miền núi, như truyền thuyết về cô tóc thơm trong Mường
Giơn (Tô Hoài), truyền thuyết về lưỡi gươm ông Tú ở Đất nước đứng lên (Nguyên
Ngọc), truyện thơ Sa Dạ, Sa Dồng trong Xứ lạ mường trên (Hoàng Hạc) và
vô số thành ngữ, tục ngữ Tày trong các tiểu thuyết của Vi Hồng... Việc cắm sâu
vào cội nguồn dân tộc giúp cho tác phẩm có thêm sức nặng tư tưởng, thêm chất
trữ tình và đậm đà thêm bản sắc. Tuy nhiên, nếu những chất liệu ấy không được
chuyển hoá thành máu thịt của tác phẩm mà được cài đặt như một thứ đồ trang
sức, phô trương sẽ tạo ra những hiệu ứng phi thẩm mĩ.
3. Chất văn
chương trong cuốn tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam được tạo nên chủ yếu bởi tính
tạo hình. Trong tác phẩm này, nhà văn đã sử dụng với một tần số rất cao các
so sánh và ẩn dụ. Chính các so sánh, ẩn dụ này đã cấu thành nên hàng loạt câu
văn có hình ảnh. Những câu có nhung có tuyết, chứa đựng những từ có cạnh sắc,
những từ ngữ vàng mười. Này là cặp vợ chồng muộn con: "Bố mẹ nó... như hai
hạt thóc lép, ủ từ mùa xuân tới mùa đông vẫn không sao nảy mầm được". Này
tả người đàn bà Mông: "Hai bầu vú chảy thượt, trông giống như cái lưỡi lợn
ôi dán hờ vào những dẻ xương sườn nhôm nhoam". Tả thiên nhiên: dải chè
tuyết trên núi cao "như được ướp trong mây, trong gió, được hấp thụ tinh
túy của đất trời"; sau mưa, "nấm mọc như vãi gạo, những bông lau như
những cái đuôi cáo đang kì động đực vểnh lên cười cợt"... Đó là những câu
đóng đinh vào bộ nhớ của người đọc. Có thể nói, so sánh là cứu cánh của văn
chương. Một so sánh trúng, đắt làm sáng bừng cả câu văn, có khả năng đánh gục
hàng loạt phương thức biểu đạt khác.
Trong tác phẩm
này, Đoàn Hữu Nam
tỏ ra chuyên chú về cú pháp. Phép đối xứng được anh tận dụng tạo những câu, vế
câu uyển chuyển, hài hoà: "Trời đất vây Suối Hoa bằng núi non. Con người
vây Suối Hoa bằng luật tục", "mưa đổ xuống, nỗi lo đầy lên",
"bát hương trên bàn thờ nhà lão chật cứng chân nhang; trong nhà, ngoài sân
chật cứng những khuôn mặt lo âu, tiếng thở dài, tiếng khóc thút thít". Các
câu lặp cấu trúc tạo âm hưởng réo rắt, nhịp nhàng: "Lời hát bay đến tai
người già... Lời hát lọt vào tai chàng trai, cô gái... Lời hát lướt tới đám
chức sắc... Lời hát lướt tới tai bố con Hồ Hằm...". Lối dựng câu ấy góp
phần tạo nhạc tính, đem lại cái phong vị dân gian mực thước, bay bổng rất quen
thuộc của văn xuôi miền núi. Nhưng có thể khẳng định, yếu tố chính làm cho mạch
văn chắc khoẻ, linh hoạt vẫn là tính hình tượng; nhờ tính hình tượng mà câu văn
có da có thịt, nổi trội hẳn lên trên những câu còi cọc, những con chữ bạc màu.
Không nghi ngờ gì, những thủ pháp tưởng chừng cũ kĩ đã tạo sức mạnh bật ra cái
xanh rờn, tươi rói của văn chương.
4. Nguyễn Đình
Thi nói: "Một cuốn tiểu thuyết có đứng được hay không là ở chỗ nhân vật có
làm cho người ta nhớ được hay không". Trong số không nhiều nhân vật của Trên
đỉnh đèo giông bão, Lù Tà là nhân vật có sức sống nhất. Đó là một kẻ háo
dục, thuần bản năng, độc đáo từ nguồn gốc sinh ra cho đến tính cách. Một thứ
đao phủ trung thành với chủ đến mức mù loà. Nó là anh em của Khun trong Vệ
sĩ của quan châu (Ma Văn Kháng), Hem trong Rừng động (Mạc Phi). Ma
Văn Kháng gọi chúng là những "bản năng bán khai kinh thiên động địa".
Nhà lí luận văn học La Khắc Hoà xếp chúng vào kiểu loại nhân vật "mông
muội, không ý thức được hành vi của mình". Với ưu thế về "lai
lịch" và tính cách, Lù Tà xứng đáng được bổ sung vào quân số những nhân
vật "hồi tổ", "lộn giống" vốn là đặc sản hiếm hoi của văn
xuôi miền núi. Nếu trong tác phẩm, gương mặt của Lay, Lin, Hoàng có thể nhoè
lẫn vào nhau, thì hình xác Lù Tà (xa một chút là Tài, Dỉ, Hoa) lại có khả năng
đục đẽo vào tâm trí người đọc.
Một điều làm
giảm sức thuyết phục của Trên đỉnh đèo giông bão, là các nhân vật thuộc
dân tộc ít người còn khá mờ nhạt về thành phần và bản sắc dân tộc (nhân vật Lay
đến gần giữa tác phẩm mới bộc lộ thành phần và hoà nhập vào đời sống văn hoá
dân tộc Giáy, còn hầu hết các nhân vật khác chưa xác định thành phần). Như một
sự bù đắp, các nhân vật người Kinh lại có dấu ấn riêng. Nhân vật cách mạng
không bị lí tưởng hoá: đại đội trưởng Lê Hoà tự mãn, kiêu căng; cán bộ Tài vừa
làm cách mạng vừa toan tính cá nhân, tranh thủ hưởng lạc. Việc chuyển giao từ
con người đơn phiến của văn học sử thi sang con người đa diện của văn chương
thời đổi mới làm cho nhân vật xanh tươi, sống động, không đơn giản một chiều.
5. Một trong
những cái khó nhất của người làm tiểu thuyết là ở khả năng điều khiển đội ngũ
nhân vật, từ đó hình thành, quy định cấu trúc tác phẩm. Hình như
Đoàn Hữu Nam
ít nhiều băn khoăn ở chỗ đó. Có cảm giác cuốn tiểu thuyết của anh mới chỉ là
tập 1, không phải vì nó còn ở trong mạch vận động chưa hoàn kết, mà vì sự đầu
tư cho các nhân vật còn thiên lệch, dở dang. Về cuối tác phẩm, có nhân vật vừa
xuất hiện đã mất hút như Nam ,
Tâm. Nhân vật Lin nên phát triển đầy đặn hơn, lại gián đoạn và tái xuất về sau
trong vài dòng trần thuật ngắn. Có cảm giác nhiều lúc tác giả đang say sưa, mê
mải “làm văn”, chợt nhớ ra còn nhiều việc chưa làm nên hối thúc nước kiệu con
bạch mã tiểu thuyết của mình bằng việc vội đi vào dòng liệt kê sự kiện nhanh
chóng, sơ lược. Điều ấy dẫn đến hệ quả là chất văn chương đậm nhạt không đều.
Một ưu điểm về cấu trúc tác phẩm là thời gian xen kẽ những mảnh thực tại - hồi
ức một cách logic, dễ nắm bắt; không gian nghệ thuật với sự xuất hiện của mưa
bão, sấm chớp gần như xuyên suốt tác phẩm tạo được không khí của một giai đoạn
lịch sử dữ dội, phức tạp ở vùng biên ải.
Làm tiểu thuyết
là công việc lao lực, quá sức người. Nhà văn Ma Văn Kháng cho rằng, viết truyện
ngắn là đi bắn vài con chim, viết tiểu thuyết là đi săn hổ dữ. Tiểu thuyết đòi
hỏi quy mô, mà có văn thì càng quý. Trong một lần ngồi với nhà văn Nguyễn Khắc
Trường, tác giả Mảnh đất lắm người nhiều ma, chúng tôi rất đồng tình với
ông rằng, "Viết văn trước hết phải có văn". Dẫu là một khái niệm đầy
huyền bí, văn ở đây xin được hiểu bắt đầu từ con chữ.
Tháng ngày qua
đi với bao thứ văn chương hỗn tạp xô bồ. Đọc Trên đỉnh đèo giông bão lâu
rồi, vẫn thuộc lòng được vài câu, hình dung được mặt mũi một, hai nhân
vật.
Bởi đó là một
tiểu thuyết có văn.
P.D.N
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét